Xu Hướng 3/2023 # Tuổi Thọ Của Các Loài Chim – Kipkis # Top 7 View | Raffles.edu.vn

Xu Hướng 3/2023 # Tuổi Thọ Của Các Loài Chim – Kipkis # Top 7 View

Bạn đang xem bài viết Tuổi Thọ Của Các Loài Chim – Kipkis được cập nhật mới nhất trên website Raffles.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

10. Tuổi thọ của các loài chim

Việc tìm hiểu tuổi đời của các loài chim hoang dại, dù đã được chú ý nghiên cứu hơn nửa thế kỷ qua, nhưng cho đến nay người ta cũng chưa biết được gì nhiều lắm. Đây là một vấn đề khá phức tạp, vì chim sống tự do trong thiên nhiên, nay đây mai đó, biết chúng chết lúc nào mà theo dõi, ghi chép. Dùng phương pháp đeo vòng, người ta cũng đã biết được ít nhiều, nhưng lúc bắt lại được chim đeo vòng có phải đã là lúc chim già nhất chưa thì cũng còn phải bàn cãi. Để biết được tuổi đời của các loại chim hoang dại một cách chính xác, phương pháp chắc chắn nhất vẫn là theo dõi chúng ở các vườn nuôi. Nhưng tiếc thay số loài chim hoang dại đã được nuôi từ trước đến nay không phải là nhiều, vả lại do điều kiện sinh sống của chúng trong vườn nuôi, không hoàn toàn giống với điều kiện thiên nhiên, nên tuổi thọ của các cá thể sống trong vườn nuôi cũng có phần sai khác với tuổi thọ của đồng loại của chúng sống trong thiên nhiên. Trong thiên nhiên có lẽ chim gặp nhiều khó khăn hơn ở vườn nuôi về điều kiện khí hậu, về thức ăn, kẻ thù và bệnh tật v.v…, và cũng vì vậy mà tuổi thọ của chim nuôi có lẽ dài hơn so với chim sống trong thiên nhiên. Nói chung, chim có kích thước lớn thường sống lâu hơn chim có kích thước bé, nhưng cũng không phải chim lớn nhất đã có tuổi thọ cao nhất. Đà điểu châu Phi, loài chim hiện đại có cỡ lớn nhất nhưng chỉ sống được khoảng 30 – 40 năm, trong lúc đó dù dì, nhỏ hơn đà điểu nhiều mà thọ đến 68 tuổi.

Căn cứ vào những kết quả nghiên cứu mấy lâu nay thì tuổi thọ trung bình của các loài chim cùng một nhóm phân loại, không khác nhau nhiều lắm. Tuổi thọ trung bình của chim thuộc bộ Sẻ và bộ Vẹt là 20 năm, của Cú 15 năm, của chim cắt 21 – 24 năm, vịt, ngỗng 20 năm, rẽ giun 10 năm, mòng biển 17 năm, bồ câu 12 năm và gà 13 năm. Đây tuổi thọ của gà rừng, còn gà nhà thì có thể sống 24 – 25 năm và thậm chí có con sống được 30 năm.

Tuổi thọ của một số loài cụ thể được xem như cao nhất đối với loài đó có thể kể như sau. Trong bộ Sẻ thì quạ sống được lâu nhất, có một con đã sống đến tuổi 60 và một con khác đến tuổi 69. Các loài chim sẻ bé có tuổi thọ thấp hơn: chim chích đầu đen 24 năm, hoét 20 năm, sơn ca 20 năm. Trong bộ Cú thì dù dì sống lâu nhất 34, 53 và 68 năm. Trong bộ Vẹt, có vẹt mào châu Úc sống đến 56 năm, và vẹt đỏ Bắc Mỹ 64 năm. Về nhóm chim ăn thịt ban ngày đã có những số liệu như sau: diều hâu châu Phi sống được 55 năm, kền kền Nam Mỹ 52 và 65 năm, đại bàng đầu trọc 38 năm. Trong bộ Ngỗng, ta biết được tuổi thọ của vịt Canada là 33 năm và thiên nga nhỏ 24 năm rưỡi. Trong nhóm sếu có sếu châu Úc sống được 47 năm, sếu xám 43 năm, sếu cổ trụi 42 năm. Bồ nông hồng sống được đến 51 năm và một số loài bồ câu sống đến 30 năm.

Bằng phương pháp đeo vòng người ta cũng đã thu được một số kết quả khả quan như đã bắt được rẽ lớn 9 tuổi, nhạn sống 16 tuổi, nhạn biển 20 tuổi rưỡi, nhạn Bắc cực 14 tuổi, chim cánh cụt trán trắng 22 tuổi, diệc 20 tuổi, cò 11 tuổi, diều mướp 13 tuổi, quạ xám 14 tuổi, sáo 12 tuổi, yến đen 9 tuổi, sẻ nhà 11 tuổi rưỡi, đớp ruồi xám 12 tuổi rưỡi, và nhạn 9 tuổi. Nhóm vịt tuy bị săn bắt rất nhiều nhưng người ta cũng đã bắt được những con sống đến 18 – 20 năm.

Trong thiên nhiên hầu hết các loài chim đều có tỷ lệ tử vong khá cao nhất là vào tuổi chưa trưởng thành, lúc chim chưa đầy một năm tuổi. Hiện tượng này đã ảnh hưởng rõ ràng đến tuổi thọ của chim và việc chim kéo dài được tuổi đời của chúng đến mức tối đa trong thiên nhiên là điều hiếm có. Ở các loài chim thuộc bộ Sẻ, tỷ lệ tử vong vượt quá 50%, như loài đớp ruồi lưng đen chỉ trong năm đầu đã chết 60%, đớp ruồi trán trắng đến 79%. Ở Cộng hòa dân chủ Đức người ta đã đeo vòng cho 77 chim nhạn non, trong năm thứ nhất đã có 51 con bị chết, năm thứ hai 17 con, năm thứ ba 6 con, năm thứ tư 2 con và chỉ còn 1 con sống sót đến năm thứ năm.

Khí hậu khắc nghiệt, nhất là lạnh, cũng đã làm chết khá nhiều chim. Ví dụ, loài chim cánh cụt chúa ở vùng Nam cực là loài chim chịu lạnh giỏi nhất, thế mà có đến 77% chim non bị tử vong vì lạnh. Đối với loài mòng biển, chỉ trong năm đầu đã có đến 0,5% chim non chết, nhưng tỷ lệ tử vong của chim non trong năm đầu chỉ chiếm 17,2% toàn đàn. Vì vậy mà (nếu không kể chim non) thì phần lớn thành viên của đàn chim có tuổi đời từ 3 đến 5 năm.

Đối với các loài chim ở nước, nhất là những loài sống tập đoàn thì tuổi thọ trung bình cao hơn ở chim sẻ và dĩ nhiên tỷ lệ tử vong của chim trưởng thành cũng thấp hơn.

Tác phẩm, tác giả, nguồn

Tác phẩm: Đời sống các loài chim

Tác giả: Võ Quý

Nhà xuất bản Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội – 1978

Đôi dòng về tác giả: GS. Võ Quý: Ông dành cả cuộc đời say sưa nghiên cứu các loài chim và có nhiều đóng góp lớn cho khoa học môi trường Việt Nam và thế giới. Ông là người Việt Nam đầu tiên ở Châu Á giành được giải thưởng Blue Planet Prize về môi trường.

“Like” us to know more!

Knowledge is power

Tuổi Thọ Của Chim Và Chim Sống Được Bao Lâu

Tuổi thọ của chim và chim sống được bao lâu, loài vật này rất thân thiết với con người. Tuổi thọ của chim không xác định cụ thể, tùy theo từng loài mà tuổi thọ của chúng khác nhau,…

Tuổi thọ của chim và chim sống được bao lâu, loài vật này rất thân thiết với con người. Tuổi thọ của chim không xác định cụ thể, tùy theo từng loài mà tuổi thọ của chúng khác nhau, có những loài chỉ sống được vài năm nhưng có những loài lại sống được tới 102 năm.

Tuổi thọ của chim rất khác nhau tùy theo loài, có thể từ ba đến bốn năm tuổi đối với một số loài chim sẻ và hơn 50 năm đối với một số loài hải âu, và thậm chí hơn 60 năm tuổi đối với một số loài hiếm có như chim kakapo (Strigops habroptilus).

Tuổi thọ của chim và chim sống được bao lâu: Tuổi thọ của chim rất khác nhau tùy theo loài

Trong cùng một loài chim, việc thay lông không những phụ thuộc vào mùa, mà còn vào độ tuổi của chim, do vậy việc biết rõ các thông tin này sẽ giúp tính ra tuổi của nhiều loài chim hoang dã. Ngoài ra mức độ khí hóa khung xương cũng là một đặc điểm được sử dụng để ước tính ra tuổi của chim.

Cho đến nay, con chim già nhất thế giới được ghi nhận là một con vẹt, thọ 102 tuổi, trong điều kiện nuôi nhốt.

Theo thông tin từ Hiệp hội Hoàng gia Bảo vệ chim của Anh ước tính tuổi thọ trung bình của hải âu Manx là 29. Nhưng nhìn chung, tất cả các loài chim biển dường như đều có tuổi thọ cao hơn các loài chim khác. Theo Grantham, điều đó có thể là do chúng sống trong môi trường gần như vắng mặt các kẻ thù tự nhiên.

Chim có danh pháp là Aves, là tập hợp các loài động vật có xương sống, máu nóng, đi đứng bằng hai chân, có mỏ, đẻ trứng, có cánh, có lông vũ và phần lớn là biết bay. Trong lớp Chim, có khoảng 10.000 loài còn tồn tại, giúp chúng trở thành lớp đa dạng nhất trong các loài động vật bốn chi.

Lớp chim cư trú ở các hệ sinh thái khắp toàn cầu, từ vùng Bắc Cực cho tới châu Nam Cực. Các loài chim có kích thước dao động khác nhau, từ nhỏ cỡ 5 cm như chim ruồi cho tới lớn cỡ 2,7 m như đà điểu. Các bằng chứng hóa thạch cho thấy, chim được tiến hóa từ các loài khủng long chân thú trong suốt kỷ Jura.

Vào khoảng 150-200 triệu năm về trước, với đại diện đầu tiên được biết đến, xuất hiện từ cuối kỷ Jura là loài Archaeopteryx (vào khoảng 155-150 triệu năm trước). Hầu hết các nhà cổ sinh vật học đều coi chim là nhánh duy nhất của khủng long còn sống sót sau sự kiện tuyệt chủng kỷ Creta-Paleogen vào khoảng 65,5 triệu năm trước.

Các loài chim hiện đại mang các đặc điểm tiêu biểu như: có lông vũ, có mỏ và không răng, đẻ trứng có vỏ cứng, chỉ số trao đổi chất cao, tim có bốn ngăn, cùng với một bộ xương nhẹ nhưng chắc. Tất cả các loài chim đều có chi trước đã biển đổi thành cánh và hầu hết có thể bay, trừ những ngoại lệ như các loài thuộc bộ Chim cánh cụt, bộ Đà điểu và một số đa dạng những loài chim đặc hữu sống trên đảo.

Chim cũng có hệ tiêu hóa và hô hấp độc nhất mà đáp ứng cao cho hoạt động bay. Vài loài chim, đặc biệt là quạ và vẹt, nằm trong những loài thông minh nhất của giới động vật; một số được quan sát đang chế tạo và sử dụng công cụ, nhiều loài sống thành bầy lại có thể truyền đạt những kinh nghiệm hiểu biết cho thế hệ sau.

Nhiều loài chim hàng năm thường di trú đến những nơi rất xa, cùng rất nhiều loài lại thực hiện những chuyến bay ngắn hơn và bất thường. Chim là động vật sống bầy đàn, chúng giao tiếp với nhau thông qua tiếng kêu và tiếng hót, tham gia vào những hoạt động bầy đàn như hợp tác trong việc sinh sản, săn mồi, di chuyển và tấn công chống lại kẻ thù.

Phần lớn chim là những loài đơn phối ngẫu xã hội, thường vào mùa giao phối trong một thời gian nhất định. Trứng chim thường được đẻ trong tổ và ấp bởi chim bố mẹ. Hầu hết chim non sau khi nở đều có thêm một thời gian được chim bố mẹ chăm sóc.

Nhiều loài chim có tầm quan trọng đối với con người, đa phần được sử dụng làm thức ăn thông qua việc săn bắn hay chăn nuôi. Một vài loài, như phân bộ Sẻ hay bộ Vẹt, được biết đến với vai trò vật nuôi làm cảnh. Hình tượng chim xuất hiện trong tất cả các mặt của văn hóa con người, từ tôn giáo, thần thoại đến thi ca và âm nhạc phổ thông.

Khoảng 120-130 loài chim đã bị tuyệt chủng do hành động con người trong thế kỷ 17, cùng với hàng trăm loài khác sau đó. Hiện nay, có khoảng 1.200 loài đang trong tình trạng đe dọa tuyệt chủng bởi các hoạt động từ loài người, cho dù vẫn đang có những nỗ lực bảo vệ chúng.

Các bằng chứng hóa thạch và phân tích sinh học chuyên sâu đã chứng minh vượt qua bất cứ nghi ngờ có lý nào rằng chim là những loài khủng long chân thú. Cụ thể hơn, chúng là thành viên của Maniraptora, cùng với các nhóm khác như họ Dromaeosauridae và họ Oviraptoridae.

Khi càng nhiều loài khủng long chân thú có mối quan hệ gần gũi với chim được các nhà khoa học phát hiện, thì những điểm khác biệt rõ ràng trước đây giữa chim và loài không phải chim lại càng bị xóa nhòa. Những phát hiện gần đây tại tỉnh Liêu Ninh phía Đông Bắc Trung Quốc, đã chứng tỏ rằng có nhiều khủng long chân thú cỡ nhỏ có lông vũ, lại càng góp phần thêm cho sự không rõ ràng này

Quan điểm đồng thuận trong giới cổ sinh vật học hiện đại cho rằng lớp Chim (Aves), chính là họ hàng gần gũi nhất của cận bộ Deinonychosauria, mà bao gồm hai họ Dromaeosauridae và Troodontidae. Chúng cùng nhau tạo thành một nhóm gọi là Paraves.

Ở chi cơ sở Microraptor của họ Dromaeosauridae, cũng có bộ lông vũ mà có thể được chúng sử dụng để bay lượn. Hầu hết những loài Deinonychosauria cơ sở đều rất nhỏ bé; điều này gia tăng khả năng rằng tổ tiên của tất cả các loài Paraves có thể đã từng sống trên cây, và/hoặc có khả năng chao lượn.

Dù Ornithischia (khủng long “hông chim”) có cấu trúc hông tương đồng với những loài chim hiện đại, chim vẫn được coi là bắt nguồn từ giống khủng long Saurischia (“hông thằn lằn”), mà đã tiến hóa cấu trúc hông của chúng một cách độc lập. Trên thực tế, bên cạnh hai nhóm trên, cấu trúc hông giống chim cũng được tiến hóa trong một nhóm khủng long chân thú riêng biệt, được biết đến là Therizinosauridae.

Vào cuối những năm 1990, bằng chứng về chim là Maniraptora trở nên không thể chối cãi, nên Martin và Feduccia đã chấp nhận phiên bản sửa đổi trong giả thuyết của họ bởi nghệ sĩ dàn dựng khủng long Gregory S. Paul; trong đó những Maniraptora là những loài chim không biết bay thứ cấp, tuy nhiên trong phiên bản đó, chim lại tiến hóa trực tiếp từ Longisquama.

Theo như vậy thì chim vẫn không phải khủng long, nhưng cũng không phải là hầu hết các loài được biết đến mà hiện tại đã được phân loại như khủng long chân thú. Maniraptora, thay vì thế, lại là những loài chim thuộc nhóm Archosaur và không biết bay. Giả thuyết của Martin và Feduccia không được thừa nhận bởi hầu hết các nhà cổ sinh vật học.

Những đặc điểm mà xem như bằng chứng của sự không bay được, theo xu thế chủ đạo của những nhà cổ sinh vật, được giải thích là “sự thích nghi ban đầu” (pre-adation hay exaptation), rằng Maniraptora đã thừa hưởng những đặc điểm từ tổ tiên chung của chúng cùng với các loài chim.

Protoavis texensis được miêu tả năm 1991, coi là loài chim cổ hơn cả Archaeopteryx. Tuy nhiên, những người chỉ trích cho rằng hóa thạch phát hiện có chất lượng bảo quản kém, được phục dựng lại phần lớn, và có thể là một “chimera” (tức được tạo nên từ hóa thạch xương của nhiều loại động vật khác nhau). Hộp sọ của chúng thì gần như rất giống với một loài Coelurosauria thuở ban đầu.

Chim sống và sinh sản ở hầu hết các môi trường trên cạn cũng như ở cả bảy lục địa, trong đó nắm giữ kỷ lục phương Nam là loài hải âu pêtren tuyết khi có thể sinh sản ở khu vực lấn sâu tới 440 kilômét trong châu Nam Cực.

Tính đa dạng cao nhất về các loài chim thuộc những khu vực nhiệt đới. Trước đây, người ta nghĩ rằng tính đa dạng cao là kết quả của tốc độ hình thành loài cao ở những khu vực này, nhưng những nghiên cứu gần đây cho thấy, ở khu vực có vĩ độ cao, tốc độ hình thành loài dù cao hơn nhưng lại bị bù trừ bởi tốc độ tuyệt chủng mà cũng lớn hơn so với vùng nhiệt đới.

Vài họ chim lại có cuộc sống thích nghi ở cả môi trường đại dương, trong số đó, có những loài chim biển vào bờ chỉ duy để sinh sản, và một số chim cánh cụt lại được ghi nhận là có thể lặn ở độ sâu tới 300 mét.

Nhiều loài chim đã thành lập những quần thể giao phối ở những vùng mà chúng được nhập nội bởi con người. Có những loài được nhập nội có chủ ý, ví dụ như loài trĩ đỏ, đã được đưa đi trên toàn thế giới như một loại chim để săn bắt.

Số khác lại mang tính ngẫu nhiên, một ví dụ là sự thành lập của quần thể vẹt thầy tu đuôi dài (Myiopsitta monachus) ở vài thành phố của Bắc Mỹ, sau khi chúng thoát ra khỏi tình trạng nuôi nhốt.

Vài loài khác, bao gồm cò ruồi, diều vằn đầu vàng và vẹt mào ngực hồng đã mở rộng phân bố một cách tự nhiên bên cạnh khu vực phân bố gốc, bởi các hoạt động nông nghiệp đã tạo nên sinh cảnh mới thích hợp cho chúng.

Phân lớp Neornithes gồm:

Paleognathae:

Struthioniformes – Bộ Đà điểu

Tinamiformes – Tinamou

Neognathae:

Anseriformes -Bộ Ngỗng

Galliformes – Bộ Gà

Charadriiformes – Bộ Choi choi (Bộ Rẽ)

Gaviiformes – Chim lặn Gavia

Podicipediformes – Bộ Chim lặn (Bộ Le hôi)

Procellariiformes – Bộ Hải âu (Bộ Chim báo bão)

Sphenisciformes – Bộ Chim cánh cụt

Pelecaniformes – Bộ Bồ nông

Phaethontiformes – Chim nhiệt đới (tropicbird)

Ciconiiformes – Bộ Hạc

Cathartiformes – Kền kền Tân Thế giới

Phoenicopteriformes – Bộ Hồng hạc

Falconiformes – Bộ Cắt

Gruiformes – Bộ Sếu

Pteroclidiformes – Gà cát (sandgrouse)

Columbiformes – Bộ Bồ câu

Psittaciformes – Bộ Vẹt

Cuculiformes – Bộ Cu cu

Opisthocomiformes – Gà móng ở Nam Mỹ (hoatzin)

Strigiformes – Bộ Cú

Caprimulgiformes – Bộ Cú muỗi

Apodiformes – Bộ Yến

Coraciiformes – Bộ Sả

Piciformes – Bộ Gõ kiến

Trogoniformes – Bộ Nuốc

Coliiformes – Chim chuột (mousebird)

Passeriformes – Bộ Sẻ

Chim và gia cầm là một trong những nguồn truyền bệnh chủ yếu ở các cự ly xa đối với con người như các bệnh virút vẹt, bệnh vi khuẩn Salmonella, bệnh vi khuẩn xoắn, bệnh lao gia cầm, cúm gia cầm, sốt hải ly (bệnh do loài ký sinh Giardia lamblia, và bệnh Cryptosporidium gây ra).

Các bệnh này cũng như sự lây lan của chúng cũng được nghiên cứu rất kỹ. Cũng do tầm phổ biến của ngành nuôi gia cầm, việc phát hiện ra các ổ bệnh gia cầm có thể khiến chính quyền địa phương áp dụng các biện pháp triệt để và ngặt nghèo đối với việc chăn nuôi này.

Vào tháng 9 năm 2007, 205.000 con gia cầm tại Bavière đã bị thiêu hủy, 160.000 gia cầm tại Bangladesh cũng đã bị thiêu hủy vào tháng 2 năm 2008 do phát hiện ra ổ dịch cúm gia cầm… Một số bệnh đặc thù như bệnh Pacheco chỉ có ở các loài thuộc bộ Vẹt.

Nuôi chim cảnh là một trong những thú vui của con người, chúng không chỉ là người bạn tâm giao mà còn là niềm vui, là may mắn của mỗi gia đình.

Một số loại chim được nuôi nhiều như họa mi, sơn ca, chích chòe bởi chúng có giọng hót hay lại không khó nuôi.

Tuổi Thọ Của Thạch Sùng Và Thạch Sùng Sống Được Bao Lâu

Tuổi thọ của thạch sùng và thạch sùng sống được bao lâu, đây là loài bò sát gần gũi nhất với mỗi gia đình, chính vì vậy câu hỏi chúng sống được bao lâu trở thành thắc mắc…

Tuổi thọ của thạch sùng và thạch sùng sống được bao lâu, đây là loài bò sát gần gũi nhất với mỗi gia đình, chính vì vậy câu hỏi chúng sống được bao lâu trở thành thắc mắc của không ít người. Mới đây, một thông tin trên mạng cho biết có con thạch sùng sống tới 10 năm.

Tuổi thọ của thạch sùng và thạch sùng sống được bao lâu

Thạch sùng là loài bò sát bản địa Đông Nam Á. Thạch sùng thường bò trên tường nhà để tìm thức ăn như nhện, ruồi muỗi, kiến, gián… Nhờ tàu biển và các hoạt động hàng hải, ngày nay thạch sùng đã di chuyển đến nhiều nơi như miền nam Hoa Kỳ, khu vực nhiệt đới và cận nhiệt đới thuộc Úc, cũng như nhiều quốc gia thuộc Nam Mỹ, Trung Mỹ, châu Phi, châu Á và Trung Đông. Con trưởng thành có chiều dài khoảng 7,5 cm đến 15 cm. Tuổi thọ của thạch sùng khoảng 5 năm.

Tuổi thọ của thạch sùng và thạch sùng sống được bao lâu: Thạch sùng là loài bò sát bản địa Đông Nam Á

Trên thực tế việc xác định tuổi thọ của các loài động vật hoang dại trong đó có lớp bò sát là rất khó. Người ta ít có điều kiện để biết một con vật ngay từ lúc mới nở đến khi con vật chết bình thường trong hoàn cảnh sống trong thiên nhiên.

Thông thường, tuổi thọ của nhiều loài bò sát chỉ là số liệu tương đối: tắc kè khoảng 7 năm, cá sấu 56 năm. Rùa cạn sống lâu nhất. Tuy nhiên đôi khi cũng có những trường hợp ngoại lệ khiến một số loài có thể sống đến 100 năm.

Tuổi thọ của thạch sùng và thạch sùng sống được bao lâu: Tuổi thọ của thạch sùng khoảng 5 năm

Thạch sùng săn mồi vào ban đêm, thường hoạt động ở những khu vực có ánh đèn. Đôi khi người ta thấy thạch sùng “ăn vụng” thức ăn hoặc nước uống không được đậy kỹ trong nhà, nên mặc dù là loài động vật rất có ích nhưng chúng vẫn gây ác cảm đối với một số người. Cũng có khi phân của thạch sùng làm nhiều người khó chịu.

Tuổi thọ của thạch sùng và thạch sùng sống được bao lâu: Hình tượng thạch sùng

Thạch sùng là hình tượng giản dị gần gũi với người dân Việt Nam, trong dân gian Việt Nam cũng có sự tích con thạch sùng, bắt nguồn từ tiếng kêu “chách chách” của thạch sùng nghe giống như người than thở “tiếc của”. Ở miền nam Việt Nam, thạch sùng được gọi là thằn lằn. Tuy nhiên tên gọi này có thể khiến chúng bị nhầm lẫn với một vài loài thằn lằn khác.

Tuổi thọ của thạch sùng và thạch sùng sống được bao lâu: Thạch sùng là hình tượng giản dị gần gũi với người dân Việt Nam

Ở một số nước phương Tây và Mỹ thường là những vùng có khí hậu không phù hợp với thạch sùng, thạch sùng được nuôi như “thú cưng” cho trẻ em, bởi người ta ấn tượng với khả năng bám được trên những bề mặt hoàn toàn bằng phẳng của chúng.

Tuổi thọ của thạch sùng và thạch sùng sống được bao lâu: Sự tích con thạch sùng

Chuyện kể rằng có hai vợ chồng một người nghèo khó tên là Thạch Sùng, sống bằng nghề ăn xin và góp nhặt được một số vốn. Một hôm Thạch Sùng nhìn điềm trời đoán biết sẽ mưa lụt to, nên đem tiền lên đong gạo tất cả. Tháng Tám năm ấy trời làm một trận lụt lớn, làm giá gạo tăng vọt. Thạch Sùng đem số gạo tích trữ của mình ra bán, trở nên giàu có và thôi nghề ăn xin.

Tuổi thọ của thạch sùng và thạch sùng sống được bao lâu: Sự tích con thạch sùng

Thạch Sùng trở thành một phú ông, lại nhờ tài buôn bán và cho vay lãi, gia tài của ông ngày càng lớn, và mua được địa vị, vua phong tước cho ông tước quận công.

Em hoàng hậu họ Vương cũng là tay cự phú và tiêu tiền phí vào bậc nhất, khi gặp Thạch Sùng trong một bữa tiệc hai bên đều muốn khoe của. Ai cũng khoe mình nhiều tiền của và tự cho mình là giàu hơn. Các quan thấy vậy bèn nói:

Hai ngài cãi nhau như thế không ích gì cả. Cần phải có chứng cớ thì chúng tôi mới tin. Hai ngài hãy trưng của cải ra cho chúng tôi xem. Ai thua phải nộp cho bên được mười thúng vàng. Chúng tôi sẽ làm chứng cho…

Tuổi thọ của thạch sùng và thạch sùng sống được bao lâu: Thạch sùng săn mồi vào ban đêm, thường hoạt động ở những khu vực có ánh đèn

Hai bên nhận lời và ký vào giấy giao ước, nếu ai thua cuộc thì mất toàn bộ gia sản. Hai bên mang đủ thứ tài sản trong nhà ra khoe: gấm vóc, sừng tê, ngói thuỷ tinh, đá lát nhà, san hô, ngựa thiên lý, ngọc, bạc, vàng… Vẫn không ai chịu kém ai.

Hoàng hậu lo cho em mình thua cuộc, đã phái mấy viên hoạn quan nhiều mưu trí đi theo để giúp sức bày kế cho Vương Khải nên thách Thạch Sùng đưa ra mẻ kho.

Vì mẻ kho là thứ nồi đất mẻ mà chỉ nhà nào cùng khổ lắm mới dùng để nấu thức ăn, mà lúc đó Thạch Sùng đã quá giàu có, bỏ đi từ lâu không dùng nữa, không có nên đành thua cuộc.

Tuổi thọ của thạch sùng và thạch sùng sống được bao lâu: Hoa hậu thạch sùng

Thạch Sùng cay đắng nhìn thấy tất cả gia sản cho đến vợ con, nàng hầu, nô tỳ… đều chạy sang tay họ Vương, ông tắc lưỡi tiếc cho cơ nghiệp tự tay mình gây dựng trong bao năm đến nay lại hoàn tay trắng. Rồi ông chết, hóa thành con thạch sùng. Thạch sùng thỉnh thoảng lại chắt lưỡi kêu lên mấy tiếng chép miệng vì tiếc của.

Tuổi thọ của thạch sùng và thạch sùng sống được bao lâu: Thạch sùng có độc không

Theo chúng tôi Bùi Công Hiển, Trung tâm Ứng dụng Côn trùng học: Thạch sùng không phải là loài côn trùng gây nguy hiểm cho con người. Bình thường chúng không tự dưng cắn người. Thạch sùng tấn công con người chỉ là để tự vệ. Khi bị thạch sùng cắn không nên quá hoảng sợ vì nó không có nọc độc như nhiều loài côn trùng khác.

Tuổi thọ của thạch sùng và thạch sùng sống được bao lâu: Thạch sùng không phải là loài côn trùng gây nguy hiểm cho con người

Tuy nhiên, về mặt cơ học, tùy thuộc vào vết cắn của thạch sùng, có thể người bị cắn sẽ cảm thấy bị đau. Ngoài ra, tuy không có nọc độc, nhưng người bị cắn cần vệ sinh vết thương để tránh bị nhiễm trùng.

Các Loài Chim Cảnh Hót Hay Nhất

Chim Hoạ mi màu lông không đẹp nhưng có viền mắt màu lam nên gọi là Hoạ mi. Để có một Hoạ mi hay phải chọn theo tiêu chuẩn:

* Trường: Thân, đuôi, mỏ, chân, mí mắt phải dài.

* Đoản: Các bộ phận trên ngắn đều. Loại này dễ dạn người hơn nhưng tiếng hót không hay bằng “tướng ngũ trường”.

Hầu hết Hoạ mi đều nhát người nên khó thuần. Muốn chim dạn phải nuôi lâu hay nuôi chim con. Hoạ mi có giọng hót rất hay:

* Giọng hồi: Tiếng hót đổ dồn từ cao xuống thấp.

* Giọng đổ: Tiếng hót có một độ cao, rung rất đều như tiếng rung cần violon (mã vĩ).

* Giọng ngắt: Tiếng hót nghẹn ngào, đứt quãng. Một dân chơi chim cảnh Hà Nội cho biết.

Sơn Ca:

Sơn ca nhỏ, chỉ đi không nhảy. Sắc lông từ vàng nhạt đến nâu đậm. Ngón chân sau khá dài, ăn sâu bọ và hạt. Mùa xuân kết đôi, đẻ từ 3 đến 5 trứng. Cuộc sống đôi trống mái rất thân mật. Cả hai đều ấp và nuôi con. Ngày nay người ta dùng thức ăn tổng hợp, chim vẫn khoẻ mạnh, dễ nuôi.

Sơn ca có tiếng hót rất hay, trong và cao. Sơn ca có tập tính bay vút lên cao rồi từ từ hạ cánh, vừa hạ cánh vừa hót từng hồi. Vì vậy lồng nuôi Sơn ca phải cao đến hơn một mét. Chim trống có ngù lông ở đầu, tiếng chim trống vang, trong – có ba thể âm gọi là tam thanh.

* Giọng thanh phải cao, trong, không chóe, không chói tai.

* Giọng bình phải đều, êm dịu, uyển chuyển, không đục.

* Giọng trầm ấm áp, không rè.

* Điệu tuyệt là tiết tấu rộn ràng, nhịp nhàng tươi sáng.

* Thế tuyệt là phong cách, lúc hót phải đậu nơi đỉnh cao, vươn cổ, rung cánh, mào dựng.

* Thì tuyệt: Hót lâu, không đứt quãng, không sợ khi có đối thủ.

Chích chòe:

Dân chơi chim cảnh mách: Người ta phân Chích choè theo sắc lông: Sắc đen trắng, sắc màu đen, sắc nâu đen khá đẹp, mang vẻ dáng văn nhân với cái đuôi dài tha thướt. Loại đen trắng hình dáng tuy không đẹp bằng loại nâu đen nhưng dễ thuần thục, dễ nuôi. Loại sắc đen trắng gọi là Chìa vôi.

Tiếng hót Chích choè than to, vang, đủ các giọng hồi, giọng đổ và hay hót, dạn người. Giọng than có đủ các cung bậc cao, thấp và trầm, khi rung như đàn violon.

Tuy giọng hót không dồn như Hoạ mi nhưng Chích choè than vẫn được xếp vào làng tứ đại danh ca vì thường hót suốt ngày, giọng thanh trong

Chích choè lửa có tiếng hót rất trong, hay nhất là lúc sáng sớm nhưng có nhược điểm là yếu, khó nuôi, khảnh ăn. Nó chỉ thích ăn sâu bọ, trứng kiến vì thế nên không được ưa chuộng như các thứ chim trên.

Thế Cường TH

Cập nhật thông tin chi tiết về Tuổi Thọ Của Các Loài Chim – Kipkis trên website Raffles.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!