Y Nghia Chim Vanh Khuyen / Top 7 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View | Raffles.edu.vn

Kien Thuc Co Ban Ve Chim Vanh Khuyen

Chim Vành Khuyên là một giống chim nhỏ tựa như chim sâu, mà người miền nam gọi là chim “khoen”, có lẽ do vòng khoen màu trắng bao quanh mắt của chim.

Người mình trước đây ít ai nuôi loại chim này, có lẽ vì thấy hình dáng của chim không có vể gì hấp dẫn, hơn nữa chưa ai phát hiện được tiếng líu “nhức nhối” lỗ tai có một không hai của chúng.Chỉ có ngýời hoa là thích loài chim này, nên sau này người mình mới hay biết mà chọn chơi.

Chim khoen có tên khoa học là “Zosteropidae”, sống ở nhiều nõi trên thế giới.

Xuất xứ: Hiện nay, nghệ nhân nuôi bốn loài chim khuyên, hai loài ở miền nam và hai loài ở miền bắc.

Ở miền nam có hai loài:

1) KHOEN VÀNG: người ta ðặt cho nó là khoen vàng, vì phần lông ở dưới mỏ, ở ngực và bụng chim có sắc lông vàng óng.

2) KHOEN XANH: Loài này lông ngực và bụng có sắc lông màu vàng lục.

Hai vành khuyên vàng và vành khuyên xanh ðể gần nhau rất dễ phân biệt.

Ở miền bắc có hai loài:

1) KHOEN XANH: (Cũng giống với khoen xanh ở miền nam)

2) KHOEN XANH TRUNG QUỐC: Ðây là loài chim sống sứ lạnh, từ trung quốc đến tận vùng siberie của Nga. Ở Mông Cổ…

Có ðiều ðáng nói là hai loài chim ở miền bắc ðem vào không rõ có phải do không hợp khí hậu hay không mà nuôi chim không ðược sung, ít líu, nên ít ai nuôi. (vấn ðề này trên diễn ðàn rất hay thảo luân, khuyên xanh hay hõn hay khuyên vàng hay hơn)

Thýờng thì ngýời miền nam thích nuôi khuyên vàng hõn, vì dễ nuôi, dễ thuần. Có ngýời lại thích khuyên xanh vì cho rằng dọng líu của khuyên xanh hay hơn.

– Chim khuyên vàng sống nhiều ở vùng rừng Sác ðến Cần Giờ, Duyên hải. Giống này thích sống ở ðộ thấp, và cũng sinh ðẻ vào ðầu mùa mýa, khoảng tháng tý âm lịch. Ðây là mùa sãn bắt, và cũng là lúc nghệ nhân lo sắm lồng ðể chọn chim nuôi.

– Chim khuyên xanh trái lại chỉ thích nghi ở những cây cao, và làm tổ trên những cây cao. Chúng sống nhiều ngay taih thành phố, ở những con đường có những cây cao.

Kể ra bắt ðýợc chim khuyên xanh, vất vả còn hõn bắt cả chục con khuyên vàng! có lẽ cũng do ở ðiểm ấy mà khuyên xanh có giá cao hõn khuyên vàng.

Mặt khác chim khuyên xanh có giọng líu vượt trội hơn khuyên vàng, giọng trong trẻo và dài hõi hõn, nên ai ðã từng nuôi thì ghiền luôn, không thể chê được. Có điều phải nhìn nhận là khuyên xanh nuôi chậm có lửa hõn khuyên vàng. Vì vậy mà nhiều người mới “ngã” theo khuyên vàng và ngại nuôi khuyên xanh.

Nói chung thì từ trước tới nay, ðiều ðè nặng lên tâm lý ngýời nuôi chim hót là “không dám” nuôi chim khuyên, vì thấy khó khăn trong việc nuôi và chăm sóc. Ai cũng nghĩ rằng, nuôi một con chim cho đến nghe “líu” không phải là chuyện dễ dàng gì. Ðiều ðó có đúng không?

Hình dáng: Quả thật nhìn phớt qua, con chim khuyên chằng khác gì con chim sâu. Thân hình cũng nhỏ nhít, cũng mang một bộ lông màu vàng lục, mắt cũng có vòng khuyên trắng, cũng nhảy chụp lồng…yếu tố ðó cũng đè nặng lên ngýời mới bước, hay định bước vào nuôi giống chim này. Người ta nghĩ bỏ công ra quá nhiều để nuôi một con chim có dòng dõi không ra gì thì thật uổng phí.

Con chim khuyên thân mình có nhỉnh hõn con chim sâu, chân cao hõn và đòn dài hơn.

Và nhý trên đã nói, muốn phân biệt khuyên vàng và khuyên xanh, người ta chỉ quan sát vào phần lông ở ức và bụng chim.

Khuyên vàng thì ức và bụng có sắc lông óng vàng, còn khuyên xanh là màu vàng lục.

Một trở ngại ðáng quan ngại nhất trong việc nuôi chim khuyên nữa là khó phân biệt ðýợc trống mái. Chỉ có những ngýời nhiều nãm kinh nghiệm trong nghề nuồi chim này may ra mới điểm mặt được ngay con nào là trống , con nào là mái mà thôi.

Thế nhưng chính họ cũng thú nhận với chúng tôi là không dám cam ðoan ðúng hẳn. Họ chỉ cho biết chỉ dựa trên những chi tiết sau đây để dự đoán:

– Chim trống thì mình thon, dài đòn, hàm dưới bạnh ra và chân cao.

– Chim mái thì chân thấp, thân hình bầu bĩnh.

Có ngýời lại cãn cứ vào tiếng kêu của chim khuyên mà ðịnh trống mái. Theo họ thì:

– Chim trống kêu tiếng gắt, âm cao lại siêng kêu.

– Chim mái thì kêu tiếng đc, âm trầm và ít kêu.

Thế nhý ðó cũng lại là một ðiều khó. Vì tiếng kêu của chim khuyên chỉ có “Chep! chép!”…. ðó là tiếng của khuyên mái, nhưng ðồng thời cũng là tiếng kêu của con chim trống khi chýa ðủ lửa. Thành thử người mới nuôi lần ðầu thường bị lầm, do ðó mới sinh nản chí.

Thuần hóa chim bổi:

Cũng nhý các loại chim rừng khác, chim khuyên ở rừng mới bắt về rất nhát, chúng cũng bay nhảy ðể tìm kế thoát thân.

Býớc ðầu, ta phải trùm kín áo lồng cho khuyên, và treo lồng ở nõi yên tĩnh, trong lồng ta phải ðể một cóng nhỏ ðựng nýớc uống, một cóng ðựng bột ðậu xanh trộn trứng (sẽ nói rõ cách chế biến thức ãn ở mục sau), một cóng ðựng cào cào non và nửa trái chuối xiêm, giữa khoét một lỗ tròn ðể nhết bột ðậu xanh vào(ðể chim ăn chuối rồi ãn lây sang bột ðậu xanh cho quen dần, vì chim bổi ít con thích nghi ngay ðýợc với thức ãn là bột ðậu xanh).

Vài ngày sau ta lại châm thêm cào cào, thay nửa trái chuối tẩm ðậu xanh khác…Dần dần, khi chim ðã dạn, ta hé áo lồng ra, nếu thấy chim ãn ðýợc bột thì ta bớt chuối…

Xin líu ý chim khuyên bổi vẫn thích tắm, vì vậy, ta vẫn cho chim tắm hàng ngày. Ðôi khi nhờ vào sự tắm táp ðó sẽ giúp cho chim thích nghi với môi trýờng sống mới, chim mau dạn và mau biết ãn thức ãn mới…

Chim bổi không hót cũng không líu, chúng chỉ thýờng kêu những tiếng ” chip! chíp!”, nên hiểu là chungs sợ hãi và bất ổn tinh thần.

Nuôi vài ba tháng, có khi ðến nãm sáu tháng ta mới bắt ðầu nghe chim “nói chuyện”, nghĩa là hót rỉ rả với nhiều âm ðiệu líu lo, ðó là thời kỳ chim ðã thuần hóa rồi.

Thức ãn của chim khuyên: Sống ở ngoài trời, chim khuyên ãn sâu bọ và trái cây chín ngọt, chuối là món ãn khoái khẩu nhất của chúng. Nhưng bắt nhốt vào lồng, ta phải tập cho chim ăn thức ăn mới, vừa bổ dưỡng cho chim, vừa tiện lợi cho mình.

Nghệ nhân thường tập cho khuyên ăn những thức ăn sau ðây:

– Cào cào non.

– Bột ðậu xanh trộn trứng.

– thỉnh thoảng cho ãn thêm chuối.

Cào cào non là món ãn ko thể thiếu hàng ngày, khoảng 10-20 con là ðủ, số cào cào này thýờng được nhốt vào một chiếc lồng nhỏ ðặc biệt có bạn tại các tiệm bán lồng chim. Chiếc lồng nhỏ này ðýợc gắn vào phía trong lồng khuyên, chim cứ dùng mỏ gắp từng con cào cào ra mà ãn.

Về bột ðậu xanh trộn trứng thì chế biến như sau:

– Lấy 100g ðậu xanh loại tốt ngâm nýớc trong 2h, vớt ra ðãi vó sạch rồi hấp chín, sau ðó ðem phõi khô. Ðậu khô thì ðem xay nhuyễn, trộn vào bột 6 lòng ðỏ trứng gả ( hay trứng vịt) và một muổng cafe ðường cảt trắng. Trộn xong ta ðem phõi nắng thật khô, hoặc bắc chảo lên xấy trên lửa liu riu, nhớ ðảo bôt ðều tay bằng cái muỗng lớn, cho ðến lúc bột tõi ra. Hoặc nếu cần, sau ðó lại xay nhuyễn lại. Xong ta trút bột này vào hộp ðậy kín ðể cho chim ãn dần.

Một ðiều hết sức lýu ý: Ðó là việc cám cho khuyên ãn các bạn nhớ chỉ cho ðúng một loại trong suốt thời gian nuôi chim, chỉ thay ðổi chế ðộ dinh dýõng trong từng thời kỳ của chim. Tránh việc ðổi cám sẽ làm chim bị suy dẫn ðến thay lông bất thýõng, bỏ líu, nặng hõn chim có thể bỏ ãn và chết.

Lồng chim và cách chãm sóc: Người ta nuôi chim khuyên trong những chiếc lồng nhỏ. Lồng này thường làm nan nhỏ và khít hõn lồng nhốt chích chòe và họa my. Nói một cách khác, những nõi làm lồng ðã ðặc chế ra một loại lồng nhỏ dành riêng cho chim khuyên.

Lồng nhốt chim khuyên thường thì xinh xắn, nan lồng nhỏ nên nhìn con chim nhốt bên trong rất rõ ràng.

Bình thường thì việc chãm sóc cho chim khuyên không có gì ðáng quan tâm: nước và thức ăn ðầy ðủ là được Cũng như ðối với các loại chim khác, mỗi lần cho chim tắm(phải sang lồng tắm) thì chúng ta lo làm vệ sinh lồng chim cho sạch sẽ. tắm xong ta cho chim sang lồng rồi tìm chỗ mát mà treo.

Ðối với những con chim tới thời kỳ thay lông, thì ta phải ðể tâm chãm sóc kỹ hõn. Chim thay lông thì có hiện týợng lông výõng vãi ở ðấy lồng, hoặc khi tắm thì lông rớt vào khay nýớc tắm. Chim thường thay lông từ vùng mặt, vùng ðầu, kế tới vùng cổ, vùng ức bụng rồi mới ðến phần cánh và sau cùng là phần ðuôi.Lông cũng không rõi rớt từng chùm, mà là từ từ, cái nào rõi trước thì ra lông mới trýớc. Nhờ vào cách thay lông ðó, nên trong thiên nhiên, chim vẫn bay ði kiếm ãn ðược.Tuy nhiên trong thời gian thay lông chim bị suy yếu về sức khoẻ, do ðó ta phải cho chim ãn cào cào nhiều hõn ngày thýờng, ðể giữ cho chim ðýợc mập mạnh. Chim mạnh thì rút ngắn thời gian thay lông, ngược lại chim suy thì thời gian thay lông kéo dài.

Trong thời gian chim khuyên thay lông, ta nên treo chim vào nõi yên tĩnh, thýờng xuyên trùm kín áo lồng, ðể chim tĩnh dýỡng, và cũng ðể tránh gió ðộc. Việc cho khuyên tắm trong thời gian thay lông vẫn bình thường, không sao cả.

Ðiều chắc quý vị cũng thừa biết là trong suốt thời gian chim thay lông, chim sẽ không hót vì…”mất lửa”. Khi chim ðã bắt ðầu hót lai rai, là việc thay lông ðã gần xong, “lửa” ðã có trở lại. Chỉ khi nào lớp lông ðã thực sự mượt mà, mình chim thon nhỏ, là lúc chim ðủ lửa ðể hót to.

Nhân nói về lông, cũng xin nói thêm là có loại dày lông có loại mỏng lông, vì con khuyên mỏng lông trông gọn gàng hõn, còn con dày lông thì trông có vẻ sồ sề một tí. Thức tế cũng cho thấy, con mỏng lông sung hõn con dày lông.

Trong phần chãm sóc chim cũng không thể không bàn ðến việc…luyện giọng cho chim. Các nghệ nhận thường treo chim mình gần các lồng chim lạ, trước hết là ðể chim sung hõn, thích “líu” hơn, và bắt chýớc giọng chim khác mà líu hay hơn.

Ðiều cần là nên cáp hai con có cùng ðộ sung như nhau, nếu chim yếu lửa mà treo gần chim mạnh lửa thì chim yếu sẽ sợ sệt và không giám líu và có khi là “rớt” luôn. Vì như chúng ta đã biết, giọng hót của chim, dù là loại chim gì, cũng ðýợc coi là sự biểu dưõng sức mạnh, để giữ gìn lạnh địa của mình, và để rủ rê chim mái.

Nuôi chim khuyên ngýời ta chịu nhất ở tiếng “líu”của nó. Có thể nói mà không sợ lầm là nuôi chim khuyên mà không biết líu thì không ai nuôi cho uổng công hết, líu ðược coi là cách hót bài bản, có đủ âm ðiệu trầm bổng liên tục một hồi dài. con chim khi đã biết líu, được coi là con chim thuần thục, ðủ lửa, ðó là thời gian đứng Khi líu, con chim chỉ đứng yên một chỗ như tập trung hết trí lực và tâm hồn của mình vào việc biểu diễn âm ðiệu thiên phú. Trong giây phút gần như xuất thần đó, con chim tí hon như không còn nhỏ bé, tầm thường nữa, mà xứng danh là một nhạc sỹ tài hoa đang gắng công nắn nót cung ðàn muôn điệu của mình.

Cái quyến rũ của nghề nuôi chim khuyên (khoen) là ở chỗ kỳ bí ðó!

Quy Y Tam Bảo Là Gì, Ý Nghĩa, Lợi Ích Của Quy Y Tam Bảo

Quy y Tam bảo là nghi lễ của đạo Phật. Đây được coi như điểm khởi đầu của phật tử đi theo giáo lý đạo Phật. Nói nôm na Quy y Tam Bảo là đem đời mình nương gởi nơi Phật, Pháp, Tăng, sống theo gương của Phật, y giáo pháp luyện rèn luyện tâm tánh và vâng lời nhắc nhở chư Tăng.

Tam bảo là gì?

Tam bảo là ba ngôi quí báu: Phật quí báu, Pháp quí báu, Tăng quí báu. Tại sao Phật, Pháp, Tăng là quí báu? – Phàm vật gì khó tìm gặp, mà khi gặp được có công dụng giúp người giải khổ, ấy là vật quí báu. Như vàng, bạc, ngọc, ngà . . rất khó được, nhưng một khi được là giải quyết mọi vấn đề: nghèo khổ, đói rách. . . cho người. Tam bảo cũng thế. Dễ gì gặp Phật ra đời, dễ gì thấu đạt pháp giải thoát, dễ gì gặp một vị sư chơn chánh? Nhưng một phen gặp được Tam bảo, chắc chắn giải thoát được mọi khổ não, và tạo cho người một cảnh giới an tịnh chơn thật. Vì thế, Phật, Pháp, Tăng gọi là quí báu. Tam bảo có công dụng vô biên, nên phải giải thích riêng từng phần.

Phật là đấng giác ngộ hoàn toàn và từ bi vô hạn, lúc nào cũng chực hướng dẫn chúng sanh đến chỗ giác ngộ như Ngài, nên người đời gọi Phật là đấng tự giác, giác tha viên mãn, là ông cha lành của tất cả chúng sanh, vị Đạo Sư của mười pháp giới.

Pháp là những phương pháp tu hành do Đức Phật dạy. Người thực hành theo những phương pháp ấy sẽ diệt sạch mọi phiền não, mê mờ, đến nơi an vui giải thoát. Nói một cách khác, Pháp là những phương thuốc trị bịnh chúng sanh. Chúng sanh là những bệnh nhân nằm rên siết trên giường bịnh, pháp của Phật là diệu dược, nếu ai biết chọn uống thì lành ngay. Pháp ấy rất nhiều nhưng đều nằm gọn trong ba tạng: Kinh, Luật, Luận.

Tăng là một số đệ tử Phật, ly khai gia đình, hiến trọn đời cho đạo pháp. Những vị hằng ở chung nhau để tu hành, để học hỏi và luôn luôn giữ theo giới luật của Phật, hằng hòa thuận thân mến nhau. Các Ngài thay đức Phật hoằng truyền chánh pháp, cứu độ chúng sanh.

Quy y Tam bảo là gì?

Đức Phật là vị thầy đã khám phá ra và tuyên bố với thế giới luật cứu độ, đó là sự giải thoát khỏi nô lệ, sự thù hận và sự thiếu hiểu biết của chính mình. Pháp là luật pháp hay sự giải thoát chân thực và thực tế, và Tăng là cộng đồng Phật tử hoặc những người có tâm hướng về Phật.

Quy y Tam Bảo là bước đi chính thức đầu tiên trên con đường Phật giáo. Quy y là chúng ta tin vào Phật giáo và chúng ta đã trở thành đệ tử của Tam Bảo – Phật, Pháp và Tăng. Khi chúng ta quy y Tam Bảo, nó định hướng đức tin của chúng ta.

Khi một người quyết định quy y Tam Bảo, nó thể hiện một sự cam kết mạnh mẽ hơn trong cuộc đời để học hỏi, thực hành và thể hiện đức tính của đức Phật, Pháp và Tăng.

Vàng, bạc, kim cương và ngọc trai đều được coi là kho báu trong thế giới trần tục. Trong thế giới của Phật giáo, Đức Phật, Pháp và Tăng là những kho báu của chúng ta.

Bằng cách cam kết với Tam Bảo, chúng ta gặt hái được những lợi ích của những viên ngọc cao quý như vậy, cuối cùng mang lại cho chúng ta nhiều lợi ích có ý nghĩa hơn bất kỳ loại đá quý nào có thể cung cấp.

Đức tin là một yếu tố giảng dạy quan trọng trong cả truyền thống Phật giáo Nguyên Thuỷ và Phật giáo Đại Thừa. Trái ngược với nhận thức các quan niệm về đức tin của phương Tây, đức tin trong Phật giáo phát sinh từ kinh nghiệm và lý luận tích lũy. Niềm tin vào đạo Phật là tập trung niềm tin vào Tam Bảo.

Quy y Tam bảo như thế nào?

Trên phương diện chữ nghĩa, hai chữ quy y có nghĩa là : quay về hay hồi chuyển. Y là nương tựa hoặc dựa vào, những hành vi hồi chuyển nương tựa hoặc quay đầu dựa dẩm tin tưởng, đều có thể gọi là quy y. Cho nên quy y không phải là danh từ chuyên dùng của Phật giáo.

Như trẻ thơ quay đầu vào lòng cha mẹ dựa dẩm vào Cha mẹ, tin tưởng Cha mẹ mới có được cảm giác an toàn, cảm giảc an toàn này được phát sinh từ sức mạnh và năng lực của sự quy y, do vậy bất kỳ một hành vi nào làm phát sinh cảm giác an tòan từ sự quay đầu dựa dẩm và tin tưởng đều gọi là quy y.

Do đó con cái tin tưởng Cha mẹ, học sinh tin tưởng vào Thầy, các nhà doanh nhân tin tưởng vào những kế hoặch và dự toán buôn bán, người cấp dưới tin tưởng vào cấp trên, các nhà Túc mệnh luận tin tưởng vào mạng vận, người phụ nữ góa bụa tin tưởng vào vũ lực, những chính khách tin tưởng vào mưu lược, người tham lam tin tưởng vào tài sản.v.v.. tất cả ít nhiều đều mang âm hưởng của sự quy y, hay nói cách khác tất cả mọi sự lý được phát sinh từ năng lực của sự tín ngưỡng đều được liệt vào quy y. Do vậy tín ngưỡng Phật giáo cũng được gọi là quy y hay tín ngưỡng vào các tôn giáo khác cho đến việc sùng bái Thần thánh tà ma vẫn có thể gọi là quy y, nhưng chân nghĩa hay ý nghĩa chân thật của sự quy y, thời là lĩnh vực khác. Bất kỳ sự dựa dẫm tin tưởng hoặc tín ngưỡng vào những điều không cứu cánh, không chắc thật thì không thể gọi là sự quy y chân chánh được, cũng ví như khi mưa to bảo lớn người ta liền trèo lên cây, trèo lên nóc nhà, chạy lên gò cao nhưng khi nước dâng cao, sóng gió nổi lên thì cây cũng có thể đổ, nhà có thể sập, gò cao có thể bị nhấn chìm, do đó trong trường hợp cấp bách như vậy nếu như gần đó có một ngọn núi cao, thì có phải rằng mọi người đều chạy lên ngọn núi ấy không ? chỉ trừ những người ngu si vô trí mới bỏ qua cơ hội tốt đẹp ấy. Do vậy núi cao có năng lực và hiệu quả an toàn hơn hẳn cây cối nhà cửa và gò đất.

Cũng vậy người có thể nhận rõ được thế sự vô thường, hiểu rõ được vạn pháp đều do nhân duyên đối đãi tương hợp mà thành, thời chắc chắn có đủ năng lực để hiểu ro.õ Cha mẹ, Thầy giáo, Kế họach dự toán, Cấp trên, Mạng vận, cho đến Vũ khí, Mưu lược, Tài sản..v.v. đều có thể phát sinh hiệu quả của sự an toàn, nhưng không chắc chắn và vĩnh cữu, bởi vì cha mẹ rồi cũng chết, tri thức của Thầy giáo rồi sẽ bị lạc hậu, dự toán có khi không chuẩn xác. Quan trên có khi bị mất chức hoặc bị điều đi nơi khác, vận mệnh không thể tuyệt đối tin tưởng, vũ lực , mưu lược, tài sản đều như huyễn, như mây, như khói. Hôm nay có thể là Vua ở phương Nam biết đâu ngày mai sẽ là người tù trong ngục tối, hôm nay là triệu phú giàu sang ai biết được ngày mai đang là chàng cùng tử xin ăn khắp nẻo đường xó chợ.

Thậm chí tin tưởng tín ngưỡng vào các Tôn giáo khác có thể được sanh Thiên nhưng chưa chắc là do tín ngưỡng ấy mà quyết định sanh thiên, ví như người tin theo đạo Thiên chúa hay Tin lành thì thánh kinh nói rằng: sẽ được cứu nhưng chưa chắc là sẽ được cứu hết. Thượng đế không thiên vị, nhưng lòng thành của bạn chưa chắc giúp bạn là người dân của xứ Thiên đàn. Lại đứng trên gốc độ của Phật giáo mà nhìn, Phật giáo chính là tôn giáo vượt ngoài mọi Tôn giáo, bởi vì lý tưởng cao siêu nhất của tất cả các Tôn giáo cũng chỉ là sanh lên cõi trời mà không vượt ngoài hạn định ấy, nhưng cõi trời trong Phật giáo dù là cõi trời cao tột nhất cũng không vượt ra ngoài sinh tử luân hồi. Thọ mạng ở cõi trời dù lớn hơn con người nhưng cũng đến lúc cùng tận, phước trời một khi đã hết cũng không tránh khỏi đọa lạc, do vậy đó không phải là nơi quy y chắc thật nhất, chỉ có quy y Phật giáo mới có thể khiến cho con người từng bước từng bước thóat ly khổ não đến với con đường giải thóat cứu kính an lạc. Tổng thể của Phật giáo chính là Phật Pháp Tăng Tam bảo.

Trên thực tế khuynh hướng của sự quy y bắt đầu từ quy y Tam Bảo, tin tưởng Tam Bảo, dựa vào Tam Bảo để khởi phát tâm mình và dẫn đường cho mình đến với con đường giải thóat hướng về Niết Bàn, nhưng khi hướng đến Niết Bàn giải thóat thì tự thân mỗi người đều chính là lý thể Tam Bảo, bởi vì mọi chúng sanh đều có Phật Tánh chỉ bởi nghiệp chướng mê hoặc mà không thể nhìn thấy Phật tánh của mình, mục đích của việc quy y Tam Bảo chính là việc cầu tìm sự hiển bày Phật Tánh, bởi vì mỗi chúng ta vốn giống chư Phật, vốn cùng Tam Bảo chỉ vì mê muội đánh mất bản tánh lưu lạc trong sanh tử, quên mất lối về mới gọi là chúng sinh, nếu chúng ta kịp thời quay về trong lòng của Tam Bảo, thì cũng như chàng lãng tử trở về cố hương mà thôi.

Do vậy chỉ có tìm ra con đường quay về, trở về nhà thì mới gọi là quy y chân chánh, còn nếu chỉ là những nơi dừng chân tạm bợ thì không phải là quy y chân chánh được, cũng giống như người cưỡi con trâu đất vượt qua sông thì chỉ cần nhúng chân xuống nước Trâu đà tan rã lấy gì vượt sông ?.

Lễ Quy y Tam bảo như thế nào?

Hiện lễ quy y thực hiện trong chùa thường gồm những nghi thức: Niêm hương, Bạch Phật, Tán hương Cúng dường và Đảnh lễ Tam bảo… Trong buổi lễ quy y, phát nguyện “quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng” là quan trọng nhất. Nếu đối diện trước Tam bảo, tín đồ đó thành tâm phát nguyện, nói lên được ba điều này thì sẽ chính thức trở thành phật tử.

Sau khi quy y Tam bảo, thầy (bổn sư) sẽ trao truyền 5 giới và tùy tâm của mỗi phật tử mà tự phát nguyện nhận lãnh (1, 2 giới hoặc hết cả 5 giới) để tuân thủ trong đời sống hàng ngày. Tiếp đến, phật tử có thể tham dự các khóa tu Bát quan trai (đây là khóa tu thực tập xuất gia một ngày một đêm cho các Phật tử tại gia, thọ trì 8 giới).

Sau một thời gian dài tu học (giữ 5 giới, 8 giới hoặc 10 giới vững chắc), nếu phật tử đó cảm nhận rằng đã thực hành trọn vẹn những điều Đức Phật dạy, bấy giờ mới có thể phát tâm cầu thọ giới Bồ tát.

Ý Nghĩa Của Quy Y Tam BảoQuy y có nghĩa là chúng ta trở lại và dựa vào Tam Bảo, tìm kiếm sự bảo vệ từ Tam Bảo và giải thoát khỏi đau khổ qua Tam Bảo. Trẻ em phụ thuộc vào cha mẹ để bảo vệ và an toàn. Nhiều người cao niên dựa vào cây gậy để đi bộ vững chắc hơn.

Thủy thủ dựa vào la bàn để họ có thể trở về nhà an toàn. Trong bóng tối, mọi người dựa vào đèn để họ có thể nhìn thấy những gì ở phía trước của họ. Tương tự như vậy, nếu chúng ta có Tam Bảo trong cuộc sống của chúng ta, chúng ta sẽ có cái gì đó an toàn để dựa vào.

Nếu chúng ta quy y Tam Bảo và học cách đánh giá cao công đức của mình, chúng ta có thể tin tưởng vào nó để vượt qua biển khổ và trở về ngôi nhà thật sự của chúng ta, nhận ra Phật tánh trong chúng ta.

Do đó, trú ẩn trong Tam Bảo có thể giúp chúng ta tìm được nơi ẩn náu an toàn để ổn định trong suốt cuộc đời này, và cho phép chúng ta có một ngôi nhà mà chúng ta có thể trở lại trong tương lai.

Quy Y Phật

Đức Phật đại diện cho sự giác ngộ. Nó đề cập đến một người thức tỉnh, người nhận ra bản chất thật của cuộc sống, người sẽ dạy cho chúng sinh nhận thấy sự thật đó và giải phóng họ bằng con đường được hướng dẫn đầy đủ.

Viên ngọc đầu tiên của Tam Bảo là Phật. Khá dễ nhớ, viên ngọc đầu tiên này không chỉ đơn thuần là người sáng lập Phật giáo. Vâng, điều đó là chính xác, tuy nhiên, nó có ý nghĩa rộng hơn.

Vì Đức Phật được cho là người đầu tiên thực sự hiểu được con đường giác ngộ, viên ngọc quý này cũng đồng nghĩa với việc hoàn thành giác ngộ. Vì vậy, khi một người Phật tử tuyên bố quy y Phật, có nghĩa là gửi gấm thân xác và tâm trí mình cho Đức Phật.

Nương tựa vào Phật không phải là để tìm sự an toàn trong một người mạnh mẽ. Nơi ẩn náu trong tình huống này giống như di chuyển đến một quan điểm mới, với một nhận thức mới về khả năng trong tất cả chúng ta.

Bằng cách trú ẩn trong Đức Phật, chúng ta liên kết với khả năng trở thành một vị Phật, để tìm kiếm khả năng đánh thức những gì mà đức Phật đã trải qua, những kinh nghiệm quý báu. Viên ngọc quý này nhắc nhở chúng ta tìm thấy bản chất Phật trong chúng ta.

Quy y Phật cũng có nghĩa là cam kết đạt được Phật Quả – Giác ngộ vì lợi ích của tất cả chúng sinh, có nghĩa là bạn muốn trở thành một người nhìn thấy bản chất của thực tại hoàn toàn rõ ràng, đúng như nó đang tồn tại, và sống một cách tự nhiên theo đúng tầm nhìn đó. Đây là mục đích của đời sống tinh thần Phật giáo, đại diện cho sự chấm dứt của đau khổ cho bất cứ ai đạt được nó.

Quy Y Pháp

Viên ngọc thứ hai của Tam Bảo là Pháp. Rất đơn giản, đây là những lời dạy của Đức Phật. Đối với Phật tử, đó là những con đường dẫn đến chân lý. Làm theo những hướng dẫn để bước đi đúng đắn trên con đường giác ngộ. Dựa trên Tứ diệu đế của đức Phật, hoặc bốn đức tin cốt lõi mà theo đó Phật tử dựa trên, Pháp được biểu tượng bằng bánh xe Phật giáo.

Pháp là con đường đi theo lời dạy của Đức Phật và cuối cùng sẽ dẫn đến sự giác ngộ. Pháp dạy chúng ta lòng bi mẫn đối với bản thân và người khác thông qua sự hiểu biết về Tứ Diệu Đế, nó dẫn đến sự giải thoát khỏi sợ hãi và vô minh.

Con đường bao gồm việc chấp nhận lời dạy của Đức Phật và áp dụng sự hiểu biết đó vào cuộc sống hằng ngày. Nói cách khác, nếu bạn làm theo những giáo lý này, bạn sẽ tìm thấy nơi ẩn náu trong Đức Phật.

Quy Y Tăng

Viên ngọc quý thứ ba và cuối cùng của Tam Bảo là Tăng Đoàn. Trong các giáo lý ban đầu của Phật giáo, Tăng đoàn là một thuật ngữ rất độc đáo dùng để chỉ các nhà sư, nữ tu và thầy giáo của Phật giáo. Tuy nhiên, khi đạo Phật phát triển, thuật ngữ đã được mở rộng bao gồm bất kỳ nhóm nào kết nối với nhau để thực hành về các giáo lý của Phật giáo.

Tăng trong tiếng Phạn có nghĩa là “cộng đồng trong sự hòa hợp”. Nó đề cập đến cộng đồng của tu sĩ (chư tăng ni) sống cùng nhau trong sự hòa hợp và cam kết cuộc sống của họ để học hỏi và giảng dạy pháp.

Tăng đoàn là một cộng đồng hài hòa theo hai cách: Họ có “sự hòa hợp về nguyên tắc” và “sự hòa hợp trong thực tế.” Về nguyên tắc, sự hoà hợp này có nghĩa là tất cả các tu sĩ đều nhận ra cùng một sự thật. Sự hoà hợp trong thực tế có nghĩa là hành động vật chất, lời nói và tinh thần của các tu sĩ phải tuân thủ sáu điểm của sự hòa hợp tôn kính này:

Sự hoà hợp trí tuệ bằng cách chia sẻ cùng một sự hiểu biết

Sự hòa hợp đạo đức thông qua việc chia sẻ cùng một giới luật, như vậy mọi người đều phải tuân thủ các quy định như nhau.Sự hòa hợp kinh tế thông qua việc chia sẻ mọi thứ vật chất và lợi ích bằng nhau

Sự hòa hợp tinh thần thông qua hạnh phúc chia sẻ, thông qua một cam kết chung

Sự hòa hợp bằng cách tránh những tranh chấp, bằng cách sử dụng lòng tốt trong bài diễn văn của một người. Sự hòa hợp về thể xác qua việc sống cùng nhau, như vậy mọi người đều vui vẻ và không vi phạm nhau. Tăng đoàn là một ngọn lửa lớn để tu luyện bản thân, kỷ luật nhân cách, và làm dịu tâm trí thành chánh kiến, như vậy, đây là một phương pháp tự lợi. Tăng đoàn còn có quyền truyền Pháp để giúp chúng sinh giải phóng bản thân, và ý nghĩa này có lợi cho người khác. Chúng ta có thể nhìn thấy tầm quan trọng của Tăng đoàn trong mỗi lĩnh vực này.

Nói một cách đơn giản, Đức Phật giống như một vị bác sĩ, Pháp như thuốc chữa bệnh, và Tăng đoàn giống như một nhóm y tá. Mỗi trong ba nhân tố này đều là những nhân tố quan trọng để giải phóng chúng sinh khỏi đau khổ. Không có thể thiếu nhân tố nào.

Chỉ khi một bệnh nhân có một bác sĩ giỏi, một loại thuốc thích hợp, và các y tá lành nghề, bệnh mới có thể được chữa trị. Điều này cũng đúng trong cuộc sống, chỉ khi dựa vào Đức Phật, Pháp và Tăng chúng ta có thể vui vẻ, giải phóng và thoát khỏi khổ đau.

Đức Phật, Pháp và Tăng được gọi là “đá quý” để thể hiện phẩm hạnh tối cao của họ, vì chúng vượt qua giá trị của tất cả các báu vật thế giới. Họ có thể giải toả nỗi đau tinh thần của chúng ta và dẫn chúng ta đến sự giải thoát khỏi vòng luân hồi sinh tử.

Điều này rất quan trọng vì Phật giáo không phải là một triết học hoặc tín ngưỡng trừu tượng, mà nó là một cách để tiếp cận cuộc sống và do đó, nó chỉ có ý nghĩa khi nó được thể hiện trong con người. Và theo nghĩa rộng nhất, Tăng đoàn có nghĩa là tất cả các Phật tử trên thế giới và tất cả những người hướng tâm trí của mình theo Phật giáo trong quá khứ và tương lai.

Lợi ích của Quy y Tam bảo

Ích lợi của việc quy y Tam Bảo rất nhiều, có thể cầu được hiện thế an lạc, có thể cầu cho đời sau an lạc, càng có thể từ đây mà được sự an lạc cứu cánh của Niết Bàn tịch tĩnh, tổng hợp lại có tám điều lợi ích :1/ trở thành đệ tử của Phật. 2/ là nền tảng của việc thọ giới. 3/ có thể tiêu trừ nghiệp chướng. 4/ có thể tích tập phước đức to lớn. 5/ không đọa ác đạo. 6/ Người và phi nhơn không thể làm hại. 7/ có thể thành công trong mọi việc lớn. 8/ Có thể thành Phật.

Ích lợi của việc quy y Tam Bảo, trong kinh Phật nói đến rất nhiều, nay chỉ đơn cử một vài ví dụ :

1. Kinh Ưu Bà Tắc giới có nói : Nếu người quy y Tam Bảo thời trong tương lai sẽ được phước báo to lớn không thể cùng tận, ví như có được của báu mà người trong cả nước vận chuyển trong bảy năm cũng không hết được, công đức của việc quy y Tam Bảo còn lớn hơn thế gấp ngàn vạn lần.

2. Kinh Triết Phù La Hán có nói xưa kia có một vị Thiên tử ở cung trời Đao Lợi khi phước trời đã hết, Thiên tử tự biết sẽ bị đầu thai vào loài Heo, rất lấy làm lo sợ liền thỉnh cầu Thiên vương cứu giúp, Thiên vương không cứu được nên khuyên Thiên tử nên đến cầu cứu Phật. Phật dạy Thiên tử quy y Tam Bảo, nên sau khi chết không đọa vào lòai Heo, mà còn được sanh làm người, gặp Xá Lợi Phất học đạo chứng đắc thánh quả.

3. Trong kinh Sát Cách Y Pháp Thiên Tử thọ Tam Quy có nói : Xưa có một vị thiên tử ở cõi trời Tam Thập Tam Thiên khi phước trời đã tận còn bảy ngày nữa sẽ chết, những sự hoan lạc, những thiên nữ đẹp không còn thân cận, những tướng mạo uy nghi đều đã thay đổi, mùi hôi bốc ra từ thân thể và thiên tử cũng biết rằng sẽ bị đầu thai vào lòai súc sinh, Thiên vương biết được liền dạy thiên tử phát tâm quy y Tam Bảo sau bảy ngày thiên tử vãng sanh, Thiên vương muốn biết thiên tử sanh vào đâu, nhưng không thể quán chiếu thấy được bèn đến hỏi Phật. Phật liền dạy rằng : “Thiên tử nhờ công đức quy y Tam Bảo đã được sanh lên cõi trời Đâu Suất”.

4. Kinh Hiệu Lượng Công Đức có nói : Nếu như có người xây Tháp cúng dường tất cả chư vị Thánh nhân chứng đắc nhị thừa trong Đông, Tây, Nam, Bắc tứ đại bộ châu, công đức tuy lớn nhưng vẫn không thể sánh bằng công đức quy y Tam Bảo.

5. Kinh Mộc Hoạn Tử có nói ngày xưa có vị Tỳ kheo Sa Đẩu chuyên tụng trì danh hiệu của Tam Bảo trong suốt mười năm, chứng đắc sơ quả Tu đà hòan, nay ở tại thế giới Phổ Hương làm vị Bích Chi Phật.

Phật cũng đã từng dạy, nếu người quy y Tam Bảo thì được tứ đại thiên vương, sai 36 vị thiện thần hộ trì, 36 vị thiện thần này còn có trăm ngàn vạn ức hà sa quyến thuộc cũng theo hộ trì người quy y Tam Bảo. Nhưng chúng ta cũng cần biết rằng, mặc dầu quy y Tam Bảo có thể cầu hiện thế bình an nhưng mục đích cuối cùng của việc quy y Tam Bảo vẫn là trở về và làm sống dậy tự tánh Tam Bảo trong mỗi người mới đúng là quy y Tam Bảo chân chánh vậy.

Chánh Thiện

Thich Nữ Hằng Như: Tam Tự Quy Y” Là Gì ?

Trong thời gian qua có đôi lần, thiền sinh yêu cầu chúng tôi giải thích cụm từ “Tam Tự Quy Y Là Gì? “. Nay thuận duyên chúng tôi gửi đến các bạn bài viết về đề tài quy y nầy. Muốn hiểu ý nghĩa của “” trước hết chúng ta cần biết rõ “” là gì?

I. “TAM QUY Y” HAY “QUY Y TAM BẢO” LÀ GÌ?

Quy nghĩa là ” quay về, trở về” hay ” hồi chuyển (tâm ý)”. Y là ” nương tựa“. Quy Y cũng có nghĩa là ” Kính vâng” hay ” Phục tùng”. Tam là chỉ ba ngôi Phật, Pháp, Tăng. ” ” hay ” Quy Y Tam bảo” nghĩa là quy kính, nương tựa nơi ba ngôi quý báu đó là Phật, Pháp và Tăng.

– Viên ngọc thứ ba của Tam bảo là Tăng hay Tăng già : Tăng già phiên âm từ tiếng Phạn là Sangha, người Trung Hoa dịch là ” hòa hợp chúng”, hay ” đoàn thể hòa hợp “. Tăng già là thuật ngữ dùng để chỉ các tu sĩ Phật giáo, là những người đệ tử của Phật, ly khai gia đình, hiến trọn đời cho đạo pháp. Họ cùng sống chung để tu hành, học hỏi và luôn giữ giới luật của Phật. Họ sống hòa thuận nâng đỡ lẫn nhau trên mọi mặt theo đúng tinh thần Chánh pháp. Nhìn chung, Tăng già là một đoàn thể có tổ chức, có lý tưởng, có nhiệm vụ cao cả nhất thế gian. Là đoàn thể đáng kính vì các thành viên của đoàn thể này đã phát nguyện sống cuộc đời tỉnh thức và luôn mang hoài bảo mang Pháp Phật đến với mọi người.

Quy y Tăng là kính nể, tôn trọng, thực hành những lời dẫn dắt của chư Tăng, vì các vị ấy là người đang đi theo con đường của Phật. Sau khi Phật nhập diệt, Tăng già tiếp tục thay Ngài hoằng truyền Chánh pháp cứu độ chúng sanh một cách chánh trực.

II. PHÂN LOẠI TAM BẢO

Trong quyển Phật Học Phổ Thông bài ” Quy Y Tam Bảo”, cố Hòa Thượng Thích Thiện Hoa đã chia Tam Bảo thành ba bậc. Thứ nhất là Đồng thể Tam Bảo, thứ hai là Xuất thế gian Tam Bảo và thứ ba là Thế gian trụ trì Tam Bảo.

III. LỄ QUY Y TAM BẢO

“Lễ Quy Y Tam Bảo” là nghi lễ hợp thức hóa cho một hay nhiều người trở thành đệ tử của Phật, gọi chung là “”. Lễ này thường được tổ chức tại Chùa hay Thiền viện, gồm những nghi thức: Niệm hương, bạch Phật, Tán hương cúng dường và đảnh lễ Tam bảo. Trong buổi lễ quy y, ngoài nghi thức sám hối, có nghi thức quan trọng là lễ phát nguyện: “”. Khi đã thành tâm phát nguyện trước Tam bảo thì vị này đã là Phật tử chính thức, được thầy bổn sư trao truyền năm giới: “Một là suốt đời không sát sanh, hai là Tùy sự phát tâm của mỗi Phật tử, họ có thể tự hứa thọ hai giới hay ba giới hoặc trọn năm giới … để tuân thủ trong đời sống hằng ngày. Nhưng thông thường các Phật tử được khuyên là cố gắng giữ trọn năm giới. Tại sao vậy? Tại vì người giữ trọn năm giới là người có nếp sống đạo đức. Người sống đạo đức là người sống an lạc vì không làm khổ mình và khổ người.

IV. NHIỆM VỤ CỦA NGƯỜI PHẬT TỬ TẠI GIA

Là đệ tử chúng ta cần tìm hiểu xem đoạn đường tu tập của Ngài ra sao? Ngài đã tự thắng bản thân của Ngài như thế nào? Và sau khi thành đạo Ngài đã làm gì cho chúng sanh?

Ngoài ra, người Phật tử cũng cần biết sinh hoạt của Quy Y Tam bảo có hai phương diện. Đó là diện “Sự” và diện “Lý”.

A. “SỰ” QUY Y TAM BẢO:

– Sự Quy Y Tăng: Chúng ta thường nghe nói: ” trọng Phật phải kính Tăng“. Cho nên chúng ta thành tâm thờ Phật bao nhiêu thì chúng ta phải thật lòng kính Tăng bấy nhiêu, vì hiện tại Đức Phật đã nhập diệt, nếu không có những vị Tăng nối tiếp mạng mạch Phật giáo thì đạo từ bi và trí tuệ sẽ không còn. Vì thế, khi người Phật tử nhìn thấy một vị có tướng ” đầu tròn áo vuông, chân chính tu hành, giữ gìn giới luật…” thì khởi tâm kính quý, nể trọng, xem vị đó như là đại diện của Đức Phật. Hành động như vậy là ” Sự Quy Y Tăng”.

B. “LÝ” QUY Y TAM BẢO hay “TAM TỰ QUY Y”

“Lý Quy Y Tam Bảo” hay “” nghĩa là người Phật tử ngoài ” Sự Quy Y Tam Bảo “, bày tỏ lòng ngưỡng kính của mình đối với Tam Bảo qua các nghi lễ Phật giáo, tụng kinh, niệm Phật, người Phật tử chân chính cần dành thời giờ tu tập thiền định, nhận ra ba ngôi Tam bảo bên trong chính mình, chứ không phải lúc nào cũng bái lạy cầu tìm Tam Bảo ở bên ngoài, mà phải ” Lý Sự” viên thông, khế hợp cả hai một cách hài hòa. Chúng ta có thể hiểu “Sự” là hình thức bên ngoài, là tu cái tướng, còn “Lý” là quay về bên trong, là tu cái tánh.

Ai cũng biết, trong nghi thức các khóa lễ, bắt đầu chúng ta thường lễ Phật bảo, Pháp bảo, Tăng bảo. Cuối khóa lễ thường tụng Tam Tự Quy Y: ” – Tự quy y Phật , xin nguyện chúng sinh, thể theo đạo cả, phát vô thượng tâm. – Tự quy y Pháp , xin nguyện chúng sinh thấu rõ kinh tạng, trí huệ như biển. – Tự quy y Tăng , xin nguyện chúng sinh, thống lý đại chúng hết thảy không ngại”. Vậy tự quy y làquy y như thế nào?

– Tự Quy Y Phật: Quy y Phật, Pháp, Tăng là quy y bên ngoài, còn “” là trở về nương tựa Tam bảo nơi mỗi người. Tự là mình. ” Tự quy y Phật ” là trở về nương tựa Phật của chính mình, nghĩa là mình trở về với Phật tánh sáng suốt của tâm mình.

Đức Phật đã từng nói ” chúng sanh, ai cũng có Phật tánh ” nhưng tại sao chúng ta không thấy Phật tánh? Đó là do chúng ta đã huân tập quá nhiều tập khí, lậu hoặc từ ngày này sang ngày khác vào trong tâm của chúng ta. Những tập khí lậu hoặc đó là những thói quen tốt có, xấu có, là những tư tưởng so sánh, phân biệt, thương ghét, giận hờn, tham, sân, si… Những thứ này trong nhà Phật gọi là màn vô minh. Màn vô minh này mỗi ngày một dày đặc hơn, làm lu mờ thể tánh sáng suốt vốn có sẵn trong mỗi con người khiến cho con người sống trong mê lầm, tối tăm, phiền não. Màn vô minh này giống như đám mây đen dừng lại che lấp mặt trăng khiến cho không gian đang sáng bỗng dưng tối sẫm lại, nhưng khi có cơn gió mạnh thổi tan mây thì ánh sáng của mặt trăng lại xuất hiện chan hòa xuống muôn loài như cũ. Vô minh và Phật tánh cũng thế. Hễ Vô minh biến đi thì Phật tánh hiển lộ.

“Tự quy y Phật ” là quay về quy y với chính mình, làm hiển lộ ông Phật trong tâm mình. Làm cách nào để Phật tánh hiển lộ? Căn bản Phật là bồ đề, là giác, là tri, là biết. Khi sáu căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý tiếp xúc với sáu trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; ngay lúc đó có liền cái biết rõ ràng mà không một niệm dính mắc. Đó là cái biết khách quan trong sáng, là Phật. Còn cái biết sanh diệt thích cái này, ghét cái kia là cái biết chủ quan, hư dối, là phàm phu.

Về lời nguyện ” Tự quy y Phật, nguyện cho chúng sinh hiểu rõ đạo cả phát vô thượng tâm“. Vô thượng tâm là tâm Bồ đề là Phật tánh. Tự thân chúng ta không nhận ra được ” Phật tánh” của chính mình, thì lời nguyện này chỉ là lời nguyện suông trống rỗng chẳng ích lợi gì cho mình nói chi cho người khác.

– Tự Quy Y Pháp: Là chân lý mà Đức Phật đã chứng ngộ rồi dạy lại cho chúng sinh. Chúng ta tụng đọc, thuộc lòng pháp Phật dạy, đó là ” Sự Quy Y Pháp “. Bây giờ ” Tự Quy Y Pháp ” là trở về nương tựa pháp Phật ngay tại mình. Đức Phật dạy các pháp Tứ đế, Thập nhị nhân duyên, Lục độ v.v… Chúng ta phải “” những pháp đó vào chính đời sống của chúng ta. Nghĩa là chúng ta nhận ra những bài học này Đức Phật dạy cho chính chúng ta. Chúng ta phải áp dụng những bài học này trên chính bản thân của chúng ta và tu tập để tự mình cứu lấy mình.

Tóm lại, ” Tự Quy Y Pháp ” là tự thân mình áp dụng cho được những Pháp căn bản do Phật dạy. Được như vậy, thì lời nguyện ” Tự quy y Pháp, nguyện cho chúng sinh thâm nhập ba tạng trí huệ như biển ” mới có giá trị được một phần nhỏ đối tam tạng kinh điển rộng lớn bao la.

– Tự Quy Y Tăng: Quy Y Tăng là nương tựa vào đoàn thể thanh tịnh lục hòa. Ý nghĩa của “Tự Quy Y Tăng ” là cá nhân mình phải là một vị Tăng sống ” lục hòa” tức là sống đúng theo nguyên tắc hòa hợp như sau: 1) Thân hòa đồng trụ (thân hòa cùng ở chung ), 2) Khẩu hòa vô tranh ( Góp ý xây dựng trong tinh thần hòa hợp không tranh cãi), 3) Ý hòa đồng duyệt ( phê phán), 4) Kiến hòa đồng giải ( chia sẻ sự hiểu biết đặt trên nền tảng lợi ích chung), Giới hòa đồng tu (), Lợi hòa đồng quân ( lợi hòa cùng chia).

Khi mình đã thực sự sống một đời tu hành đúng theo sáu nguyên tắc mà Đức Phật đã nêu trên, thì việc hoằng pháp sau này của mình sẽ không gặp trở ngại và lời nguyện ” không ngại” mới có cơ hội thành tựu.

V. KẾT

Cho nên, bước đầu học Phật, người Quy y Tam Bảo cần nghiêm trì năm giới là đoạn tận sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, đoạn tận tà hạnh trong các dục, từ bỏ nói láo, đoạn tận đắm say rượu men, các chất ghiền nghiện.

Trong ” Tăng Chi Bộ Kinh ” có ghi lại lời dạy về các nguồn công đức có được của các vị Thánh đệ tử. Đó là ba nguồn nước thiện đến từ Quy y Phật, Pháp, Tăng sẽ mang hạnh phúc, an lạc cho người quy y. Và năm nguồn nước thiện dẫn đến cho người Quy y Tam bảo là khả ái, khả hỷ, khả ý, hạnh phúc và an lạc…

Nam Mô Bổn Sư Thích ca Mâu Ni Phật

THÍCH NỮ HẰNG NHƯ (Chân Tâm thiền thất, 18/9/2020) Tài liệu:

– “Kinh ” : Chương VIII – Tám Pháp – IV. Phẩm Bố Thí (IX) (39) “Nguồn Nước Công Đức”, HT. Thích Minh Châu dịch từ tiếng Pali.

– Sách ” Phật Học Phổ Thông” : Bài “Quy Y Tam Bảo” – HT. Thích Thiện Hoa biên soạn.

– Sách ” Những Lời Thầy Dạy ” : Bài “Hòa Thượng Dạy Ni Chúng Trúc Lâm”, HT. Thích Thanh Từ.

Đại Lý Độc Quyền Thuốc Thú Y Quảng Ngãi. Đt: 0939.89.54.79

Tên thuốc: THUỐC Đặc trị Nấm Mốc Lác Phân loại:

Thuốc bôi trực tiếp

Thành phần:

– Permethrin. – Cypermethrin. – Tá dược vừa đủ. – Chất cấm: không có.

Công dụng:

– Thuốc đặc trị Nấm, Mốc, Lác cho gà tre, gà đòn, gà nòi, gà mỹ, gà cảnh...– Thuốc Sát trùng vết thương.

thuoc tang luc cho ga da, thuoc tang luc cho ga choi, thuoc tang luc cho ga tre, thuoc tang luc cho ga noi, thuoc bo cho ga da, thuốc bổ cho gà đá, thuoc bo cho ga choi, thuốc bổ cho gà chọi, thuoc tang luc cho ga da, thuoc tang luc cho ga choi, thuoc tang luc cho ga tre, thuoc tang luc cho ga tre, thuoc tang luc cho ga my, thuoc tang luc cho ga da cua sat.

Tên thuốc: THUỐC TĂNG LỰC – Thuốc nuôi – Tăng bo – Trợ lực Phân loại:

Thuốc Uống

Thành phần:

– Butaphosphane. – Cyanocobalamine (B12). – Adenosine triphosphate(ATP). – Dung môi đặc biệt.

Công dụng:

– Thuốc Tăng lực nhanh, Tăng bo, Trợ lực cho gà Đá, gà Chọi. Tăng cường sức Đề kháng và Phục hồi sức lực cho gà Đá sau khi thi đấu. – Hỗ trợ Phục hồi chấn thương, mất máu sau khi thi đấu. – Thuốc Tăng cường quá trình trao đổi chất và thời gian thi đấu, tập thể lực. – Cải tạo hình thể. Tăng sức dẻo dai, dây chằng chắc khỏe, thị lực nhạy bén. – Làm chậm mệt mỏi cơ bắp, kích thích tuần hoàn máu, tăng lượng oxy đến Cơ. Tăng tốc độ phản xạ linh hoạt – Tăng số lượng hồng cầu, ngăn ngừa thiếu máu. – Kích thích thèm ăn. Ăn ngon miệng.

khoang chim giúp Chong can ria long, ngan ngua rung long, kích thích mọc lông, lông óng mượt, dáng đẹp cho chào mào, chim họa mi, chim chích chòe, chim cu gáy, chim khướu, chim vành khuyên,..

khoang chim giúp Chong can ria long, ngan ngua rung long, kích thích mọc lông, lông óng mượt, dáng đẹp cho chào mào, chim họa mi, chim chích chòe, chim cu gáy, chim khướu, chim vành khuyên,..

Thuốc đặc trị Hô hấp, Khàn giọng, Tiêu chảy, Sã Cánh, ủ rũ, ho, thở khó chim chào mào, chim họa mi, chim chích chòe, chim cu gáy, chim khướu, chim vành khuyên,..

thuoc kich lua chim, kích lửa chim, cang lua chim, căng lửa chim, thuoc cang lua chim chao mao, chim hoa mi, chim chich choe, chim khướu, cu gáy, chim vành khuyên,

thuoc Nysta, NYSTA Phòng và Đặc trị Nấm Diều, Nấm Phổi, Nấm Họng, Đẹn Miệng Gà đá..

thuoc Nysta, NYSTA Phòng và Đặc trị Nấm Diều, Nấm Phổi, Nấm Họng, Đẹn Miệng Gà đá..

thuoc Neolife, men sống cho ga da, men tieu hoa cho ga da, men tieu hoa ngua tieu chay cho ga da,..

thuoc Neolife, men sống cho ga da, men tieu hoa cho ga da, men tieu hoa ngua tieu chay cho ga da,..