Sài Gòn Năm Xưa Sai Gon Nam Xua Doc
--- Bài mới hơn ---
Sài Gòn Năm Xưa
Kính dâng Ba tập biên khảo thường đàm nầy để tưởng niệm những phút êm đềm đã qua:
Năm 1919, Ba đưa con lên Sài Gòn vô trường lớn.
Con bắt đầu nếm mùi cháo cá Chợ Cũ, hủ tíu Chợ Mới, xem hát thì Chùa Bà Chợ Lớn, nhai thịt bò kho thằng Lù, có năm cắc leo chuồng gà ngồi coi hát Tây, và cảnh không còn gặp nữa là: bữa bữa hai cha con thượng cao lâu ăn cơm xá xíu.
Năm 1927, Ba lên thăm, con mua bánh Catinat, lòng mừng dâng Ba món lạ. Ba không dùng, hỏi con: “Chữ Hiếu” sao có đắt tiền?
Năm nay 1960, đầu con bạc mà túi vẫn nhẹ, muốn mua bánh, Ba không lên: xe giằn, đường xa, hai con đò Cái Vồn và Mỹ Thuận vẫn có tiếng không lịch sự đối với hành khách “bát thập lão ông” như Ba vậy!
Những ký-ức bấy lâu, con viết gởi về:
“Vương Trạch Nhựt, cháu hãy đọc lớn cho Nội nghe”.
Gia Định, đường Rừng Sác, số 5,
ngày 26 tháng 5 năm 1960
SẾN
1. Cõi Nam từ năm 1658 đến năm 1753
Lúc ấy đã có người Cam Bốt ở trên đất Nam nầy rồi. Nói chính đáng mà nghe, từ Huế, Chúa Hiền Vương đã từng cắt quân đi chinh phục miền Nam . Quân ta cả thắng Chàm và sau những chiến công rực rỡ, dân Việt đã có dịp chen vai thích cánh với người Khơ me, nơi những vùng biên giới cũ Chàm, kể từ năm 1658.
Một điều nên nhớ kỹ, là vào thời buổi ấy, DÂN THƯA ĐẤT RỘNG, DÂN LÀM ĂN KHÔNG HẾT, việc đi khai khẩn đất hoang là thường sự và không hề sanh ra việc gì rắc rối. Tục thường ví “CHIM TRỜI CÁ NƯỚC”, ai bắt được nấy nhờ.
Một điều khác cần nói rõ thêm là đất miền Nam của bán đảo Ấn Độ – Chi Na cũng không phải thiệt thọ “phần đất phụ ấm” của Khơ me. Sự thật thì dòng thổ dân tiên chiếm vùng nầy là giống Phù Nam đã bị tiêu diệt từ thế kỷ thứ VII, và có thể người Khơ Me chiếm thay người Phù Nam từ thế kỷ thứ VII, lại mấy có sự đòi hỏi tranh tụng gì? Tha hồ lúc ấy ai khai phá được khoảnh nào thì nấy làm chủ ăn hoa lợi. Và như đã nói “đất ở không hết”, tội gì tranh giành cho nhọc lòng lo, cho mệt xác. Sợ nhứt là làm như vậy, chỉ sanh oán thù, ích gì?
Gương xưa tích cũ còn trước mắt sờ sờ:
– Pháp quốc đã giàu mạnh, nhưng còn nhà đất Gia Nã Đại, chẳng qua lúc ấy vừa chê xa xôi, vừa chê ít hoa lợi…
– Trung quốc là nước lớn, thế mà cắt đất Mã Cao để làm nhượng địa cho Bồ Đào Nha, rồi cũng cắt đứt Hương Cảng làm nhượng địa cho Anh Quốc, chung quy cũng vì thời buổi ấy hai chỗ nầy chỉ núi đá trơ trơ, toàn đất hoang vu không sanh hoa lợi, “mất” hay “bỏ” vẫn không tiếc…
Nhắc lại, sau khi nhà Minh bên Trung Quốc bị nhà Mãn Châu thay thế, thì năm 1680, bọn di thần Minh triều như Dương Ngạn Địch, Huỳnh Tấn, Trần Thắng Tài, v.v… tự xưng người “Trường Phát” (tóc dài) không khứng đầu hàng Thanh triều, vì họ ghét tục dân Mãn Châu cạo đầu gióc bín (để đuôi sam như đuôi lừa). Bởi rứa, theo sử chép lại, các tướng ấy dìu dắt độ ba ngàn tinh binh trung thành với cựu trào, lướt sóng trên năm mươi, sáu mươi chiến thuyền vượt trùng dương tìm xuống miền Nam, xin đầu hàng chúa Nguyễn, vì dân Nam cũng để tóc dài và trung thành với đạo Khổng Mạnh như họ. Đứng trước tình trạng khó xử này, chúa Hiền Vương trong lòng bối rối không vừa, vì kỳ trung chúa chẳng muốn gần gụi đám vong thần bất trị ấy; nhưng với trí tinh khôn có thừa, ngoài mặt chúa giả cách niềm nở tận tình. Chúa bày tiệc khoản đãi quân sĩ nhà Minh rồi “tống khứ” họ xuống miền Đông Phố , bèn cầu cứu với triều Huế, Chúa Hiền nhân cơ hội ấy để sai nha trảo xuống dàn xếp… Thêm một cơ hội may mắn đến cho triều Huế là vào năm 1688 giữa người Tàu Mỹ Tho và người Tàu Cù Lao Phố sanh ra sự bất hòa lớn. Chúa Hiền khi ấy đã mất, nhưng Ngãi vương nối ngôi không kém sự trí mưu. Huỳnh Tấn giết Dương Ngạn Địch, binh chưa lại nghỉn thì kế bị Chúa Ngãi ra tay trước, giết Huỳnh Tấn, dẹp tan đám giặc khách sót lại ở Mỹ Tho mà làm chủ tình thế hai thị trấn tân tạo Mỹ Tho và Cù Lao Phố (Biên Hòa).
Chúa thừa thắng cho binh tướng kéo rốc lên Cam Bốt tới trước thành Gò Bích, Miên Vương một mặt dẫn phi tần về thành U Đông, mặt khác sai sứ nạp biểu. Chúa Ngãi cho dân, quân về an dinh lập trại Bến Nghé. Công việc ấy gọi là “đồn dinh” (nay thuộc Phúc Chánh, Biên Hòa) bắt được vua là Nặc Ông Chân đem về giam ở Quảng Bình một độ, rồi tha cho về nước, bắt phải triều cống và phải bênh vực người An Nam sang làm ăn ở bên ấy.
Năm Giáp Dần (1674), nước Chân Lạp có người Nặc Ông Đài đi cầu viện nước Xiêm La để đánh Nặc Ông Nộn.
Nặc Ông Nộn bỏ chạy sang cầu cứu ở dinh Thái Khang (nay là Khánh Hòa). Chúa Hiền bèn sai cai cơ đạo Nha Trang là Nguyễn Dương Lâm cùng với Nguyễn Đình Phái làm tham mưu đem binh chia ra làm hai đạo sang đánh Nặc Ông Đài, phá được đồn Sài Gòn rồi tiến quân lên vây thành Nam Vang. Nặc Ông Đài phải bỏ thành chạy vào chết ở trong rừng. Nặc Ông Thu ra hàng. Nặc Ông Thu chính là dòng con trưởng nên lại lập làm chánh quốc vương đóng ở Long Úc, để Nặc Ông Nộn đóng ở Sài Gòn, bắt hàng năm phải triều cống.
Năm Mậu Thìn (1688), Hoàng Tiến đi đánh dẹp, dùng mưu giết được Hoàng Tiến và bắt vua Chân Lạp .
Năm Mậu Dần (1698), chúa Nguyễn là Nguyễn Phúc Chu sai ông Nguyễn Hữu Kính Đặt Trấn Biên dinh (tức Biên Hòa) và Phiên Trấn dinh (tức Gia Định) sai quan vào cai trị. Lại chiêu mộ những kẻ lưu dân từ Quảng Bình trở vào để lập ra thôn xã và khai khẩn ruộng đất. Còn những người Tàu ở đất Trấn Biên (Biên Hòa) thì lập làm xã Thanh Hà: những người ở đất Phiên Trấn (Gia Định) thì lập làm xã Minh Hương. Những người ấy đều thuộc về sổ bộ nước ta”.
(Việt Nam Sử lược, Trần Trọng Kim, trương 329-330)
2. Từ năm 1753 đến năm 1780
2. Nối chân Phù Nam trên vùng Thủy Chân Lạp là người Cam Bốt
3. Theo dấu người Tàu, năm 1680 đến miền Nam, năm 1778 lập Đề Ngạn
4. Trở lại dấu vết tổ tiên Việt
Muốn biết rành rẽ, nên chờ xem bộ luận án thi Tiến sĩ của học giả Malleret, đăng trong tập kỷ yếu Trường Viễn Đông Bác cổ (Bulletin de l’Ecole Francaise d’Extrême-Orient) đang in. Theo tác giả, sẽ gồm bốn tập lớn. Hiện nay Viện Bảo Tàng Sài Gòn đã nhận tập thứ nhứt chia làm hai quyển nhan đề: “L’exploration archéologique et les fouilles d’Oc-Eo”, Paris 1959, Tome Premier, “Texte”, Tome Premier “Planches” (Sách tham cứu khảo cổ nói về cuộc đào tìm cổ tích tại Oc-Eo, tập nhứt chia ra một quyển về luận văn, một quyển về hình ảnh.)
(Nay trọn bộ đã xuất bản rồi.)
Srock biến ra tiếng Việt là “Sốc” tức xứ của người Miên ở. Về sau, “sốc” nghĩa là xứ, vùng. Tỷ dụ: Sốc thổ, sốc mọi, sốc việt (Sock yuong). Về danh từ “Yuong” hay “Yuônn” hoặc “duong”, chưa ai giải nghĩa nghe ổn thỏa. Có thuyết cho “duong” do tiếng Phạn trong “Yuong na” tức là người ngoại kiều. Cắt nghĩa làm vậy e thông thái quá, sợi tóc chẻ làm đôi, theo ý tôi phải chăng “duong” do tiếng chót danh từ “An nam quốc vương” của vua chúa ta dùng để xưng hô đời trước mà có. Người Khmer quen nói tiếng một, danh từ “An nam quốc vương” quá dài dòng bẻ miệng, bẻ môi, khó nói, nên họ dùng gọn chữ “vương” cũng đủ và “vương” biến lần “yuong” v.v… Có danh từ năm 1945-1946 người Miên dùng làm khẩu hiệu là “Cáp duồng”. “Cáp” là chém đầu, “Cáp duồng” là chém đầu thằng Việt!).
Hồi đời Linh mục Bá Đa Lộc đã năng dùng danh từ “Sài Gòn” trong thư tín nhưng đến lối 1860 danh từ này mới phổ biến rộng và thống nhất.
Thật ra, khó mà tóm tắt trong vài câu ngắn gọn và đầy đủ về điển tích chung quanh thành và đất Sài Gòn. Muốn hiểu vấn đề này, phải chịu khó tìm dấu gót vua Gia Long trong những năm người bôn tẩu trong Nam , từ năm 1774, và theo dõi các vì vua chúa nhà Nguyễn đến năm khia chiến cùng binh Pháp là năm 1859.
Phần này chia ra:
1. Thời đại Nguyễn Ánh (từ năm 1774 đến năm 1820). (Nguyễn Phúc Ánh xưng chúa từ 1774-1802, tức là vị hoàng đế lấy đế hiệu Gia Long từ 1802-1820).
(Xem một đoạn tả về vài nét ăn thói ở dưới triều hai vua Gia Long và Minh Mạng lúc quan Tả quân còn làm Tổng trấn tại Gia Định);
2. Sau năm biến cố 1859;
3. Tây đến Tây đi (dứt trước năm ký hiệp định Genève 1954).
1. Sài Gòn dưới trào Nguyễn Ánh (1774-1820)
2. Sài Gòn dưới trào Minh Mạng (1820 – 1840)
Có cả thảy mấy vị trí mang tên “Sài Gòn”
và tùy thời đại xoay hướng đổi chỗ như thế nào?
1. Prei Nokor,Sài Gòn của Cổ Cao Miên, trước năm 1680.
2. Đề Ngạn,nơi tụ tập của người Tàu, từ năm 1778.
3. Bến Nghé,nơi tụ tập của người Việt, từ năm 1790.
* * * * *
Đoạn này, theo tôi rất là quan trọng.
Tôi xin mở một dấu ngoặc, vừa để ôn lại những tài liệu đã biết rồi, vừa để nhơn đó, nhận định và tìm hiểu vị trí Sài Gòn, đã tùy thời, đổi chỗ như thế nào.
Có cả thảy ba vị trí đáng để chú ý nhứt:
1. Chỗ nào là “Cổ Sài Gòn” thành lũy mà người Cam Bốt gọi là “Prei Nokor”?
2. Sài Gòn, nơi tụ tập buôn bán của người Tàu
3. Sài Gòn của Việt
Thuở “đàng cựu” vùng Sài Gòn chánh danh gọi “Bến Nghé”. Đó mới là xóm Việt Nam . Bến Nghé, tên gọi “Ngưu Chử” tên khác nữa là Tân Bình Giang; xóm Bến Nghé chạy dài từ khu Chợ Quán tới Hiển Trung Tự (Pháp dịch “temple de la Fidélité”) và chạy đến Thủy xưởng (Arsenal). Miếu Hiển Trung do đức Cao Hoàng dựng lên để thờ các công thần khai cơ dựng nghiệp, trong có bài vị mấy trăm cái, gồm có một bài vị thờ người thủy binh Pháp Matelot Manuel, miễu Hiển Trung vốn ở trong thành Ô Ma (Camp des mares, có lúc là trụ sở trung ương Cảnh sát). Sau năm đảo chính 1945, binh Pháp trở lại chiếm cứ thành Ô Ma, và dỡ bỏ miếu Hiển Trung, về sau này không còn nhìn được xưa ở chỗ nào.
Cả ba vùng: vùng Miên (Phú Lâm), vùng Tàu (Đề Ngạn) và vùng Việt (Bến Nghé) nối liền nhau nhờ rạch, kinh, sông ngòi nhiều hơn bằng đường lộ đất. Nay dân cư ngày một thêm đông, nhà cửa ngày một thêm nhiều, các đường thủy đạo bị lấp lần hồi, không dễ gì truy tầm ra manh mối. Cách nay một trăm năm xe cộ rất ít, đường sá không nhiều như bây giờ. Muốn xê dịch chỗ này qua chỗ nọ, đường xa dùng võng, cáng, sang nữa thì chạy ngựa thêm mau lẹ, nhưng vẫn tốn kém khổ cực (ngựa phải đúng giờ cho ăn cho nghỉ dưỡng sức) đã phiền phức lại nhiều bất tiện. Đường gần, gọn nhứt và rẻ tiền là đi thuyền, ghe lồng, ghe giàn, tam bản bốn chèo hoặc hai chèo, bình dân hơn nữa là chiếc xuồng ba lá (chỉ ba tấm ván ghép lại).
Khắp Sài Gòn (Bến Nghé) và Đề Ngạn (Chợ Lớn), lối 1860, có rất nhiều con kinh đào tay, tuy bẩn thỉu nhưng thuở đó rất cần ích. Về sau, lần lần các kinh bị lấp mất dạng hình, nhường chỗ cho Sài Gòn tân thời, xứng danh hòn “Bửu ngọc Viễn Đông” (La Perle de l’Extrême Orient).
Trong thành nội, xin kể đại lược những cơ quan sau này:
a. Hành chánh:
– Dinh Ông Thượng, vùng cao ráo.
– Trường Thi.
– Trường tiền (chỗ đúc tiền).
– Hoàng cung.
– Pháp trường.
b. Quân sự:
– Cơ xưởng, vùng phụ cận.
– Thủy trại (arsenal).
– Trường Diêm (kho đạn, có phải là dinh Tân Xá cũ chăng?).
– Cơ dinh.
– Mô súng (đồng Tập trận).
– Khu lương thực (Cầu Kho).
c. Phố xá: nhà cửa dân cư ở vùng thấp có các rạch con nối liền nhau.
d. Phía xa vô lần trong Chợ Lớn: Phố Hoa kiều (trong bản đồ Pháp đề “Bazar chinois”), có phải Đề Ngạn đây chăng?
Theo cuốn “Annuaire de la Cochinchine” in năm 1865, hồi Tây mới qua, vùng Sài Gòn đếm được bốn chục làng ở dài theo sông Bến Nghé và chung quanh Quy Thành Le nom de Chợ Quán, appliqué aux villages de Tân Kiểng, Nhơn giang, Bình Yên, était celui du marché qui se trouvait sous les grands tamariniers de l’avenue de l’hôpital de Chợ Quán. Il y avait beaucop d’auberges, de la le nom de Chợ (marché) quán (auberge).
Entre l’avenue de l’hôpital et la ferme des Mares était le village de fondeurs. Nhơn Ngãi (aujuord’hui Nhơn Giang). On y remarque les vestiges dun ancien village cambodgien. Une grande pagode cambodgienne avec des tours en brisques, se trouvait sur une propriété. En y creusant on trouve des brisques cambodgiennes, des nénuphars en terre cuite, de petits bouddhas en bronzee, en pierre . Il y reste encore deux blocs de granit bien poli et ornés de sculptures en relief.(Ces pierres se trouvent actuellement au Musée National du Viet Nam (Jardin Botanique) Saigon NDLR
De Chợ Quán (Nhơn Giang) jusqu à la route qui descend à Cầu Kho, ce bord était habité et parsemé de maisons entoutees de jardins. (Souvenirs historiques de Saigon et de ses environs, par Trương Vĩnh Ký, 1885, page 28).
Miên gọi “Kompong Krebei” – krompong là vùng, krebei là trâu, nghé – Việt có danh từ “Ngưu Chử” nôm na là “Bến Nghé” hay là dịch lại của người Miên chăng?.
Đường Trần Hưng Đạo, lúc dự thảo thì định phải chạy ngay từ trước nhà “Quốc Hội” – nay là nhà hát thành phố – thẳng một mạch vô Chợ Lớn, đi ngang chợ Bến Thành, thẳng bon một đường, như vậy mới đúng luật thẩm mỹ, nhưng khi bắt tay vào việc thì “đụng chạm phong thủy, mồ mả nhiều vọng tộc”, nên đành sửa lại uốn vẹo từ chợ Bến Thành, vẻ mỹ quan bớt đi một vài.
người Miên xưa gọi vùng này là “kongpongluong” tức “bến vua”. Sách sử Việt đã âm từ này ra “lâm phong long” trong tấu sớ. Về sau, đặt “Huyền Tân Long” đất Sài Gòn, theo tôi ắt cũng dễ khêu gợi ít nhiều danh từ Miên “kompongluong” vậy – VHS.
Arsenal có từ năm 1864. Nhà của viên giám đốc sở Ba Son, góc đường Cường Để Nguyễn Du. Dinh này xây từ năm 1877.
Dinh Gia Long hiện nay. Trước lấy kiểu theo viện triển lãm hội họa thành Munich (pinacothèque de Munich ) vì định xây xong sẽ lấy đó làm viện trưng bày những kinh tế phẩm trong xứ (musée de économique). Nhưng khi xây cất rồi thì viên thống đốc choán ở, cho đến nay viện bảo tàng kinh tế phẩm chưa có chỗ xứng đáng để dọn. Dinh Gia Long, xây từ năm 1885 đến năm 1890 mới hoàn thành. Lối năm 1941-42, viên Thống đốc Hoeffel phá bỏ mặt tiền dinh nầy và mặt tiền Nhà Hát Đô Thành, thay bộ diện theo kiểu mới như ta thấy ngày nay…
Ông Nguyễn Liên Phong, một thi sĩ thời ấy, đã ghi lại mấy câu như sau:
Dám xin hỏi nội quân tử nhất là Đông Hồ lão huynh dạy cho tôi biết còn bản nào khác nữa chăng và bản nào đúng chính nguyên văn của Tôn Thọ Tường?
Theo “Monographie de la province de Gia Dinh” thì năm 1833, lúc đánh với giặc Khôi, ông Trương Minh Giảng ra lệnh đốt cầu Cao Miên.
Huỳnh Công Lý, sanh tiền cậy thế “quốc trượng” làm nhiều điều ngang ngược, chết bị xử trảm. Còn lại nấm mồ, công vua xây, tưởng đâu êm ấm, ngờ đâu mấy chục năm trước, chính mắt tôi trông thấy người trong xóm lên án bằng cách phóng uế, xú khí bốc lên đêm ngày, kịp khi mở đường Cao Thắng, lưỡi cuốc vô tình lật nắm xương lên, dời qua quách nhỏ vùi một nơi nào nay không biết được, thảm làm sao! Chẳng qua tại lòng Trời, tự mình muốn khói hương tồn tại như ai nào được.
về sau nhờ khéo điều đình, hội Phú Trung mua lại phần đất có ngôi mộ và đền thờ, diện tích 709 m 2 , (tờ đoạn mãi lập ngày 26/9/1953, Me Bérenger)
Tòa nhà làm Procure cất trên dinh Tả Quân, và xây từ năm 1869 đến năm 1877 mới xong.
Đây phải đâu chỉ có bọn dọn bàn làm bá chủ tại Sài Gòn thưở giao thời, khi Tây mới qua. Tiếp theo còn những giới đặc sắc nhứt – (xin xem Thơ Nam Kỳ và Thơ Nam Kỳ tiếp, bản in Nhà Dòng Tân Định năm 1903).
1/ – Đây là bọn hầu cận các quan Tây
Nực nồng những kẻ hoài thinh!
Tiếng Tây không biết, tưởng vinh trong đời,
Áo vân quần nhiễu dạo chơi,
Đồi mồi lược diễu, giắt phơi trên đầu,
Xa Tào (?) Soái phủ ở đâu,
Vườn hoang múa gậy, người hầu cậu quan…
(Thơ Nam Kỳ, trương 15)
Áo quần bằng vân nho xuyến nhiễu, toàn những thứ đắt tiền, phải hạng ăn to xài lớn mới dám dùng. Lược giắt đầu tóc làm bằng vảy đồi mồi có diễu vàng là trang sức cực kỳ sang trọng thưở xưa, đến năm 1915 còn thấy dùng, nay đào mả cổ còn gặp.
Xa Tàođây chắc là xa giá hầu Tào Tháo (tiếng nói điệu hát bội).
Hoài thinh. Có phải chăng: “Hoài” là mang, “thinh” là thanh danh; hoài thinh là “mang danh”?
2/ – Và đây là mấy thầy thông ngôn ký lục
Các ông tham biện đương đàng,
Tiếng Nam người biết, điếm đàng khó qua;
Ông nào chẳng biết tiếng ta,
Ở ngoa ủ bổ, nói ra nói vào,
Quê mùa làng xóm chú nào,
Tới dinh hầu việc đã nao hết hồn.
Nên hư nhờ tiếng thông ngôn,
Đưa lên cũng phải, lấp chôn bao nài.
(cùng trương 15)
Lúc ban sơ, trong Nam Kỳ, Tây đào tạo người giúp việc bằng cách tuyển lựa học trò lớp nhứt các trường tỉnh, đem về Sài Gòn dạy dỗ tại trường d’Adran (chỗ trường Taberd bây giờ). Sinh viên được ăn ở tại trường, thêm lãnh phụ cấp mỗi tháng và xà bông giặt đồ, giày, y phục kiểu Tây mỗi năm mấy bộ: o bế như vậy, mà lúc đầu ít người dám xin học vì còn sợ triều đình ta trở lại nắm chánh quyền. Một cậu con nhà giàu tỉnh Gia Định, mướn người đi học thế cho mình, sau nầy cậu trở nên “tên bán quán cơm tại cầu tàu Sốc Trăng”, còn anh học trò khó chễm chệ là ông chủ quận châu thành, Đốc phủ sứ. Sinh viên trường d’Adran thi ra trường, ai đậu số cao được tự ý lựa: nếu ham ăn lương lớn (sáu đồng bạc con Ó) (piastres en argent décorées de l’Aigle Mexicain) thì bổ làm thầy giáo dạy học, bằng như ham làm thông ngôn (tuy lương kém hơn, có bốn đồng bạc con Ó, nhưng còn trông cậy nơi tiền cửa sau, tiền “lì xì” và lễ lộc bưng mâm), còn lại những người không đậu nhưng hạnh kiểm tốt thì đều được thâu dụng vào các sở mới tạo lập: trường tiền, nhà dây thép, sở họa đồ, v.v…) Xưa thầy “thông ngôn” oai lắm: chức làm “interprète” khi “đứng bàn ông Chánh” (thông dịch viên của Tham biện chủ tỉnh) thét ra khói, khi “khi đứng bàn ông Phó”, làm tay sai và thông dịch viên cho Phó tham biện, hét ra lửa, ngày sau thầy thông ngôn đủ năm làm việc được thì một kỳ nữa rồi được bổ làm Huyện lên Phủ, rồi Đốc phủ sứ, làm chủ quận, đại diện cho quan Pháp trong một vùng, “oai như giặc”, “oai thấu trời”, “oai hơn ông ghẹ”!
Vì kiêng nể nên dân tặng vợ các vị ấy chức “cô thông”, “cô huyện”. Chức ký lục ban sơ gọi làm vậy, nhưng sau đổi lại là “thơ ký” tức “secrétaire”. Lúc đầu thơ ký chuyển trong hàng học trò lớp nhứt, chưa đỗ đạt, không cấp bằng, nhưng học lực khá, viết chữ thật đẹp và ít lỗi lầm. Vì kém vế hơn thông ngôn, nên dân ban chức “thím ký S.” hoặc “thím S.” cho bà vợ, đồng một hạng với mấy thím vợ các chủ tiệm Tàu trong Chợ Lớn. Đến khi chức thông ngôn đặc biệt chỉ dùng để gọi các thông dịch viên bên Toà Án (interprète des tribunaux), các thầy thông bên Toà Bố đều liệt vào sổ “secrétaire” (thơ ký), nhưng phân biệt ra “thơ ký chánh ngạch, ngạch soái phủ” (secrétaire du Gouvernement), lãnh lương quản hạt và “thơ ký địa hạt” (thầy ký tỉnh, lãnh lương làng) (secrétaire régional). Khi ấy, các thím vận động và đồng hè lên chức “cô ký” rắp rắp!
Dân đời trước, đi hầu quan Tây, bên Tòa Án thì chưa có trạng sư, bên Tòa Bố ít có tham biện sành sỏi tiếng Việt, và mỗi mỗi đều trông cậy nơi thầy thông ngôn, cho nên dân sợ “thầy” hơn sợ “ông râu ria”! Thông ngôn tiếng mất tiếng còn, lợi hại vô cùng. Có lễ vật thì việc vạy hóa ngay, không lễ không tiền thì dân thấy thua kiện trước mắt. Có khi vì bất tài, mấy thầy thông ngôn đời trước giết người không cần dao bén. Câu tòa hỏi: “Demandez au condamné s’il préfère les travaux forcésou la peine de mort?” Dịch không suy nghĩ câu ấy hoá ra: “Tòa hỏi anh muốn Tòa kêu án khổ sai rồi chết chém hay không?” vì thầy nghe lầm “…et la peine de mort”.Ở ngoa ủ bổ – Tôi không hiểu trọn câu. Duy biết “ủ” là “hữu”, “bổ” là “vô” (tiếng Tiều). Còn “ở ngoa” có phải “au revoir” chăng?
3/ – Và đây là các “vợ Tây”, “me Tây” thời ấy
Lâm cơn nhờ có “Chị Hai”
Đưa vào liệu việc, bẩm ngài mới an
Xem qua chẳng có, hứ ngang (vì chẳng có tiền kèm theo)
Đời ôi nhiều nỗi bợn nhơ;
Ma tà có chú hay quơ hay quào,
Giận ai gươm súng phao vào,
Báo quan nhà nghịch, vây rào xét coi.
Quan bèn tưởng thật dấu noi,
Phú sai đi bắt xét lòi súng ra.
Đặng tang rồi mặc ý ra,
Quơ đồ ráo cạo đoạn già dẫn đi…
(trương 18)
Nhân vật tuy đổi chớ nhơn tâm ấy vẫn còn, cổ kim không khác mấy.
Đoạn già… Đoạn= rồi thì; Già = gông.
Đoạn già dẫn đi nghĩa là: rồi thì đóng gông dẫn đi.
* * * * *
Cái “mốt” ăn mặc hồi Tây mới qua cho đến trận Âu Châu đại chiến 1914-1918 thì: thầy thông thầy ký, những người còn thủ cựu, gọi “phe theo Nho”, thì áo dài xuyến đen, khăn đóng “Suối đờn”, giày Hạ Châu đế lót lông ngựa, gọi theo Quảng Đông là “giày mạ mị” (mã vĩ), hoặc giày “hàm ếch thêu cườm chữ ngẫu” đặt tại Gò Công. Mấy thầy tân tiến gọi “phe theo Tây”, thì bận áo bố trắng cổ đứng, nút tra chuỗi hổ phách .
Các tay dọn bàn, nấu bếp hầu cận “Ông To” thì nịt dây nịt nỉ chống một gang tay, tám nút đen phơi trước bụng, quần lục soạn trắng không vận, thời ấy chưa có dây lưng rút, lưng quần xổ ra kéo phủ lên dây nịt, gọi “vận quần theo kiểu quần bàn”, đó là tay tổ, khuyên ai đừng ngó lâu mà ăn thoi bất tử.
Nấu bếp, dọn bàn thì đầu chít khăn nhiễu trắng, giắt lược đồi mồi, còn như mấy ông mấy thầy tự ví như bậc nho sĩ, thì chít khăn thanh (lụa xanh), chớ cũng không ai dám vượt bực chít khăn nhiễu điều, trừ phi mấy ông già bà cả gần xuống lỗ thì dùng khăn đỏ mà vẫn được châm chế, không ai nói gì.
Các ỷ, các ý .
Lính Pháp và quan võ Pháp đánh cùng binh Văn Thân cù nhầy trót một năm trời mà bình không nổi giặc. Người Pháp muốn mua chuộc nhơn tâm, nửa cương nửa nhu, khi chùng khi thẳng và không nỡ xuống tay độc thủ. Pháp bắt được địch quân thì giam vào ngục thất là cùng. Giam mãi ngục thất dẫy đầy người yêu nước, cho nên thét quan Pháp phải viện đến ông. Ông ra quân chỉ có mấy tháng mà dẹp yên vùng Thuận Khánh (Khánh Hòa, Bình Thuận).
Ông là người khô ráo dong dảy, môi mỏng, cặp mắt có sát khí. Ông bắt được địch thủ, nhứt quyết không cầm tù và chỉ chặt đầu y quân lịnh: chém người như chém chuối, chém không chừa con đỏ. Các ông già bà cả, nay nghe nhắc tên ông, đều thảy lắc đầu. Chính toàn quyền Paul Doumer đã hạ một câu xác đáng: “Việc ấy đã biết dư, cố nhiên là phải vậy! Nếu muốn (nhơn nghĩa) và chớ chi còn kế hoạch nào khác, thì thà đừng sai hắn cầm binh…” công sáng tạo,
Quy dân lạc lợi, Huỳnh đường Trần Bá Thọ kinh dinh”
Có dịch tập “Nhị Thập Tứ Hiếu” ra Pháp văn và Quốc ngữ. Sau ra làm hội đồng quản hạt (conseiller colonial), dám ăn dám nói, Doumer nhìn nhận người Pháp cũng không bì. Buồn rầu việc tư, tự tử bằng súng lục.
2/ – Nhơn vật thứ hai của đất Sài Gòn, là một hàm Tổng Đốc có tên đặt một con đường thị tứ nhứt tại Chợ Lớn.
Có tiếng là “hiền” hơn ông kia. Người nẫm thấp, phốp pháp, râu bạc le the, râu mép để ngạnh trê vuốt sáp nhọn quớt như cặp sừng trâu. Về già ưa đón đưa tân khách Pháp đãi rượu sâm banh (champagne), cho ăn bánh Petit beurre thứ de Nantes chánh hiệu.
Nhà dọn nửa Tây nửa Ta, năm căn đố lương thành vọng gỗ quý chạm lọng khéo léo, trước nhà có sân rộng chưng toàn cây kiểng gốc (cây thế), ngó mặt ra một con kinh nay đã lấp. Doumer tả hình trạng đã viết một câu ngộ nghĩnh: “Người ông giống hệt nhà ông: ngoài bày y phục Pha Lang Sa, trong giữ phong tục bản xứ”
Không biết quả thật chăng, về sau có người gởi đến câu đáp như vầy, nhưng không nhận thưởng:
Cù Lao Rồng, có lũ thằng phung,
Phun một lũ: “Cửu trùng bát nhã” .
Ba ông minh triết bảo thân, gần bùn chẳng nhuốm mùi bùn, không ham “đục nước béo cò” như ai, chỉ say đạo lý và học hỏi, sống đất Tào mà lòng giữ Hán, thác không tiếng nhơ, thấy đó mà mừng thầm nước nhà những cơn ba đào sóng gió còn hiếm người xứng danh học trò cửa Khổng.
Nghĩ cho tay dao tay súng làm nên sự nghiệp như những nhà kia, nhưng khi nhắm mắt, sự nghiệp hoen ố lụn bại, sao bằng một ngòi bút, một nghiên mực, sự nghiệp văn chương trường cửu của ba ông tiền bối này mới thật quý và thơm.
6/- Sài Gòn có bốn nhà giàu gộc: nhứt Sĩ, nhì Phương, tam Xường, tứ Định.
Nhứt Sĩ là ông Lê Phát Đạt. Người Cầu Kho, thuở nhỏ tên Sĩ. Nhơn qua học La Tinh ở Cù Lao Pénang gặp thầy dạy trùng tên nên đổi lại là Đạt. Tuy vậy đời vẫn quen gọi theo tên cũ (Nhà Thờ Huyện Sĩ).
Xuất thân thông ngôn chữ La Tinh. (Thời ấy, đào tạo nhơn viên thông thạo chữ và tiếng Pháp chưa kịp, nên phải dùng người ở trường Nhà Dòng ra, học chữ La Tinh, chữ Hán, và chữ Quốc Ngữ do trường Pénang (có lưu gót cũ của Bá Đa Lộc) do các thầy tu dạy và điều khiển). Ông làm việc nhiều năm tại tỉnh Tân An. Tương truyền buổi đầu, Tây mới qua, dân cư tản mác, Pháp phát mãi ruộng đất vô thừa nhận, giá bán rẻ mạt mà vẫn không có người đấu giá … giận mà nói “hứ” không có tiền kèm theo.
Ca dao thời ấy còn nhắc: “Bành tô” (paletot) đánh chết xử huề, “Áo thun” chạy lại, đứng kề bành tô! (Bành tô ám chỉ mấy thầy, áo thun ám chỉ bồi dọn bàn…) đều là người có thế lực, đánh chết ai có thể không đền mạng.
Ỷ, Y: tiếng Triều Châu. Tức “di” là “dì”.
“Il fallaits’y attendre et ne pas l’envoyer si on voulait et si on pouvait faire autrement” (L’Indochine – Souvenirs par P. Doumer – trương 60).
Il ressemble à sa maison, ayant pris le costume francaise pour ses relations extérieures et conservante les moeurs indigènes. (P. Doumer Souvenirs.. trương 67).
Cù Lao Rồng ở tỉnh Mỹ Tho là bịnh viện phung cùi. Trong Nam , không phân biệt “phung” và “phun”.
Đất Sài Gòn ngày nay mỗi thước vuông, chỗ địa thế tốt giá trên hai ngàn bạc cũng là thường sự. Không bì những năm xưa, mỗi thước một hai đồng bạc, năm ba ống hào, mà không có tiền mua sắm. Còn nói gì hồi Tây qua, nghe nói lại, những chủ cũ đều đồng hè bỏ đất, không nhìn nhận, vì nhận e nỗi quan và triều đình Huế khép tội theo chánh phủ Pháp. Vả lại, cũng ước ao một ngày kia Tây bại trận rút lui, chừng đó ai về chỗ nấy, hốp tốp làm chi cho mang tội… Không dè bởi đất không ai nhìn, nên Pháp lập Hội Đồng Thành Phố, Ủy Ban Điền Thổ, rồi đưa nhau đi khám xét từng vùng. Đến chỗ nào địa thế tốt, thì những hội viên bản xứ nhận là của mình: “Ùy” (Oui) một tiếng! Đến chỗ nào nẻ địa thì lắc đầu, tiếp theo nói “No” (“non”, cũng một tiếng! Chung quy chỉ học hai tiếng “Ùy”, “No” mà có ông lập nghiệp truyền tử lưu tôn. Năm trước tại Sa Đéc, tôi hầu chuyện một bực lão thành, ông Phủ Tân Hàm Ninh, nay đã quá vãng. Ông từng ngồi chủ quận hạt Gò Công. Ông nói: “Trận bão năm Giáp Thìn (1904) xảy ra ngày 1 tháng 5, gió thổi mạnh từ 10g sáng đến 10g đêm, nước lụt người trôi, đất Gò Công bỏ hoang vô số kể. Mặc tình ai đủ can đảm chịu ra mặt đóng thuế thì làm chủ chánh thức. Tuy vậy”, ông Phủ tiếp, “mà có ai thèm đâu. Học chỉ lo vớt thây ma lột vòng vàng ăn sốt dẻo còn hơn tham đất ruộng, rủi thời không tiền đóng thuế mắc nợ ở tù khổ thân ích gì”.
Bộ “Điếu Cổ Hạ Kim” của Nguyễn Liên Phong soạn năm 1915, có chia ra phần nhứt “điếu” những danh nhơn quá vãng, phần nhì “khánh hạ” những nhơn vật đương thời (1915). Tác giả có ý kiến rất sớm và làm việc sưu tầm này với rất nhiều trở ngại. Nhơn vật được nêu tên rất sụt sè có khi vì hiểu lầm không khứng cho phép, thành thử còn thiếu sót khá nhiều. Đây là một bộ sách ít ai giữ được và trở nên một sưu tập phẩm hiếm có của những người chơi sách.
Thành ngữ “lấy lên” nghe lạ tai và đã có người lầm với “lấy lén”; nhưng “lấy lên” có nghĩa riêng của nó, tức chận lận ăn xớt, ăn bớt, ăn xén lớp trên mặt. V.H.S.
Hầu sáng: Hậu sanh (bồi bàn)
– Phổ ky: Hỏa kế (Luôn tiện chép luôn, thưở xưa có thứ rương da để hút á phiện lúc đi đường, gọi hòm “phù sầu”, tức hòm hộ thủ (thuật theo lời cụ Vi Huyền Đắc) (V.H.S.)
Phần thứ bảy
Nhân vật Hoa kiều hồi Tây mới qua
Những nhân vật Trung Hoa đặc sắc nhất từ buổi Tây sang Nam Việt
Trong sách khảo về Tôn Thọ Tường, ông Khuông Việt có ghi nơi trương 51 và 52 rằng năm 1866 có cuộc đấu xảo đầu tiên trong xứ và qua ngày mồng Bốn tháng Ba có bày lễ phát phần thưởng trước mặt quý ông: Tôn Thọ Tường, tri phủ Trần Tử Ca, tri huyện Nguyễn văn Thi, giáo sư Trương Vĩnh Ký, cùng những ông: Carneiro, Sémane, Manmehdorff, Dunlop, Mettler, Wang Tai và Tấn Phát.
Tôi không truy nguyên rõ Tấn Phát là người quốc tịch nào. Đến như Wang Tai, các sách được đọc đều ký âm theo Pháp Văn, không có ghi chữ Hán kèm theo, nên không tài nào biết danh tánh ông cho rõ, họ Vương hoặc họ Hoàng, v.v…? Chỉ thấy nói ông Wang Tai có nhà ở Sở Thương Chánh hiện nay và ông là một thương gia tên tuổi nhứt nhì buổi giao thời.
Về các nhơn vật tăm tiếng lẫy lừng của giới Trung Hoa xin kể:
Hui Bon Hoa
Tục danh “Chú Hỏa”, mặc dầu về sau danh vọng lớn, địa vị cao, cũng không ai gọi “Ông Hỏa” bao giờ. Sớm nhập Pháp tịch, nên ký âm theo Pháp ngữ làm vậy rồi gọi như vậy cho đến đời đời, không rõ theo Hán tự hà danh hà tánh? Đến nay các con cháu luôn luôn hòa thuận, gia tài giữ nguyên vẹn không chia phần manh mún, chỉ cùng nhau chia lợi tức, và mỗi khi cần dùng một số tiền to tát thì người trong họ phải xin chữ ký của người trưởng huynh khi ấy ngân hàng mới phát bạc. Nhờ giữ gìn có phương pháp cho nên sự nghiệp Hui Bon Hoa ngày càng đồ sộ thêm mãi, không sứt mẻ mảy may nào. Sơ khởi chú Hỏa nghe đâu hùn hiệp với một người Pháp bao thầu khuyếch trương các tiệm cầm đồ (Mont de piété) trong Nam Kỳ. Về sau rã hùn, người Pháp được chia một số tiền to lớn và làm chủ vĩnh viễn các sản nghiệp đất cát miền Lục Tỉnh. Hiện nay, phố xá Sài Gòn một phần lớn là của Công Ty Hui Bon Hoa làm chủ. Nhưng công ty nầy được tiếng là “rất biết điều” và không eo xách, làm khó người mướn phố.
Nói đến Chú Hỏa, tất nhiên phải nhắc lại đây các bang trưởng, chủ nhà máy, lò gạch, tiệm buôn lớn, những tay cự phú tuy làm giàu cho họ đã đành, nhưng cũng giúp ích rất nhiều cho sự mở mang thạnh vượng kinh tế miền Nam, trong số tôi chỉ biết sơ những vị sau này, và rất mong các bậc lão thành bổ túc cho thêm đầy đủ.
Chú Hỷ
(Khuyết danh tánh) – Có tàu chạy khắp Lục Tỉnh, hễ đường nào có tàu Tây hãng Vận tải đường sông rạch (Compagnie des Messageries Fluviales) thì có tàu Chú Hỷ (như ngoài Bắc có công ty Bạch Thái Bưởi) chạy kèm, giá vé rẻ hơn, cơm nước dễ chịu, bộ hành cũng biệt đãi hơn, nhưng về giờ khắc thì không đúng hẳn như tàu hãng Pháp. Đến bây giờ, còn câu thường nhắc:
“Đi tàu Chú Hỷ, ở phố Chú Hỏa”
Nam Long
Có nhà máy xay gạo bán ra ngoại quốc.
Nam Hải
Nay còn nhà ở đường Nguyễn văn Sâm (d’Ayot cũ).
Di Sanh Long
Tiệm bán thuốc Bắc tại Chợ Lớn
Nhị Thiên Đường
Nay vẫn còn
Đồng Thạnh
Tiệm bán vàng lá danh tiếng. Chuyên bán vàng nguyên chất đánh ra lá mỏng, cân đúng một lượng, ngoài gói giấy trắng, trong gói một lớp giấy bạch và một lớp giấy đỏ và có in hình con ngựa. Trung bình mỗi lượng vàng thưở trước là năm mươi, sáu mươi đồng bạc “con cò” (piastre mexicaine). Đến năm 1919, vàng sụt giá còn lại mười tám, mười chín đồng bạc Đông Dương mỗi lượng. Qua năm 1943 – 1944, Nhựt đổ bộ, vàng vọt lên một trăm đồng, sau một trăm năm chục đồng một lượng. Ngày nay mỗi lượng lên xuống bốn ngàn, năm ngàn bạc giấy có hơn, thiệt là một trời một vực.
Vi Kính Trang
Là ông thầy coi tướng, mỗi lần xem năm cắc bạc, mà nói phong phóc, hay vô cùng. Nhà ông ở trên gác ngõ hẻm rue des Artisans, phía đường Cháo Muối (rue des Marins) trở vô.
Tja Ma Yeng
Tục danh Má Chín Dảnh, họ Tạ, giàu có danh trong Chợ Lớn, vân vân và v. v…
Nhưng nhơn vật điển hình nhứt thời lối 1920, có lẽ là Quách Đàm.
Quách Đàm
Xuất thân mua bán ve chai. Sau kèm thêm mua da trâu, vi cá, và bong bóng cá. Ngày ngày thả rong làng xóm, hai giỏ tre trên vai, quản bao mưa gió. Buổi trưa Đàm thường nằm nghỉ lưng hàng ba phố trống, ghe phen bị một phu vác lúa làm khổ, móc túi Đàm lấy giấu giấy thuế thân để chẹt Đàm chuộc năm xu, một hào, mỗi bữa có đủ tiền uống trà giấc trưa. Như vậy mà Đàm không thù hiềm, khi đắc thời Đàm tìm cho được anh phu, ân cần mời về cho làm cặp rằng xếp bọn vác lúa, không khác chuyện Hàn Tín đối đãi với tên ác thủ đời Tây Hán. Đàm nhờ lanh trí, nhập giới thương mãi thấy việc mau lẹ hơn ai, nên làm giàu cấp tốc. Đàm hút nha phiến đêm ngày, đèn không tắt, giao thiệp lựa toàn quan to, thậm chí Thống đốc Nam Kỳ Cognacq, làm cao không ai có, thế mà cũng hạ mình cầu thân với Đàm.
Đàm mua đất vùng Bình Tây nguyên là đất ruộng, mua xong Đàm nghĩ ra một kế để biến đất ruộng trở nên đất thổ trạch châu thành. Đàm hy sinh một số vốn to tát, tự mình xuất tiền đúc một chợ ciment cốt sắt vĩ đại, nay vẫn còn đồ sộ và khéo léo, quen gọi Chợ Quách Đàm (Chợ Bình Tây) Về chuyện Chợ Quách Đàm, ngày 12-4-1961, ông Bác sĩ Diên Hương, về ẩn trên Đà Lạt (nay đã từ trần), có viết cho tác giả một bức thơ, nay xin đăng nguyên văn để công lãm: “… Lúc đó Chánh Tham Biện Chợ Lớn thấy Chợ Cũ (ở chỗ nền nhà Bưu Điện Chợ Lớn hiện thời) nhỏ hẹp, không đủ cho bạn hàng nhóm chợ, và cũng muốn mở mang châu thành, mới kiếm đất xa Chợ Cũ cất một cái chợ mới cho rộng cho lớn. Ông biết có một ông điền chủ ở châu thành, người Việt Nam dân Pháp, có đất rộng lớn, mới mời đến hỏi mua. Ông điền chủ nầy không thấy rộng nghe xa, tưởng là gặp cơ hội, liền ưng thuận mà với một giá mắc quá tưởng tượng. Ông Quách Đàm nghe chuyện đó, liền cho người đến dâng một miếng đất rộng hơn (chỗ chợ ngày nay) không đòi tiền, chỉ đòi được phép cất phố và sập chung quanh chợ, để sau này cho mướn… ông Chánh lẽ tất nhiên chịu liền…” (Diên Hương).
Câu hát, câu hò thưở trước
[101] Louise Alcan và hai cô gái lần lượt tự tử trên góc nhà lầu Carabelli Charner.
--- Bài cũ hơn ---