Bạn đang xem bài viết Phong Phú Các Loài Chim Ở Sơn Trà được cập nhật mới nhất tháng 9 năm 2023 trên website Raffles.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
ĐNO – Nếu ở Sơn Trà, những bức ảnh voọc chà vá chân nâu đẹp ở nét suy tư, đằm thắm, trong những hành vi rất giống người, thì chim lại cho các nhiếp ảnh gia những bức ảnh lung linh màu sắc mà mắt thường chúng ta ít có cơ hội nhìn ngắm.
Chim lớn như đại bàng thì bay cao bay xa, chim nhỏ như chim chích, chim sâu, chim hút mật thì bé như một đốt ngón tay, ẩn mình trong bụi; lông chúng thường nhiều màu sắc nhưng mắt thường khó thấy được, chỉ những máy ảnh chuyên hoặc bán chuyên nghiệp với ống kính tầm xa mới “bắt” được vẻ lộng lẫy của chúng.
Sơn Trà là một bán đảo nhô ra khá xa về phía đông Đà Nẵng nên là điểm dừng nghỉ trên đường bay về phương Nam tránh rét của các loại chim di trú ở các vùng đất phương Bắc xa xôi như: Siberi ở Nga, Mông Cổ, Nhật Bản, bán đảo Triều Tiên, Trung Quốc.
Ngoài các loài chim đặc hữu bản địa như bói cá, hút mật, gà lôi, gà rừng, gà nước, sơn ca, họa mi, hoét đá…, ta còn gặp ở đây các loài chim di trú như sẻ bụi Siberi, hoét Nhật, hoét Trung Quốc, thiêng đường Nhật bản, đại bàng Malay, ó biển…
Đi bộ hoặc dừng nghỉ ở bất cứ đâu từ mũi phía Đông đến bờ phía Tây của bán đảo, ta sẽ nghe tiếng hót ríu ran bằng đủ cả các giọng của các loài chim.
Và nếu có máy ảnh trên tay với ống kính tốt, bạn sẽ có những bức ảnh đẹp, hoặc nếu may mắn gặp được một loại chim hiếm của thế giới thì thật tuyệt.
Chim hút mật họng tím ở chùa Linh Ứng Sơn Trà. Chim hút mật họng đỏ Chim cu xanh lưng đỏ, hiếm ở các nơi nhưng có rất nhiều ở Sơn Trà. Chim hồng hạnh trống (Hill Blue Fly catcher) Chim ưng biển, còn gọi là ó cá (Tên khoa học là Pandion haliaetus) Chim chích chòe lửa đang tha mồi làm tổ, loài chim đã gần như tuyệt chủng ngoài tự nhiên do đánh bắt và giá cao (1.000 USD ở Singapore), cặp chim này sau khi được nhìn thấy ở khu vực gần cảng Tiên Sa cũng đã bị bắt mất. Chim chích chạch, lớn hơn chim sâu một chút. Chim chích chòe lửa. Chim sâu đầu đỏ, thân bé như một đốt ngón tay. Chim hoét đá, một loại đặc hữu của rừng Sơn Trà Chim khách. Chim sẻ bụi lông hồng – một loại chim di cư từ Siberi đến Sơn Trà từng đàn rất đông vào đầu mùa đông, nghỉ cánh vài hôm rồi bay tiếp về phương Nam. Chim trảu đuôi nhọn, xuất hiện ở Sơn Trà rất nhiều vào mùa hè.
HỒ TRUNG TÚ (thực hiện)
Các Loài Chim Ở Việt Nam Được Nuôi Làm Cảnh Trong Nhà
Các loài chim ở Việt Nam được nuôi làm cảnh trong nhà Các loài chim ở Việt Nam được nuôi làm cảnh
Yến Phụng tên khoa học là Melopsittacus Undulatus, là một loài chim cảnh đẹp thuộc bộ Vẹt, có nguồn gốc từ Châu Úc. Chim Yến Phụng là loài chim có dáng khoằm, mỏ sắc nhọn, mắt tròn và to. Yến Phụng là một dòng nhỏ trong họ Vẹt nên có màu lông đa sắc như Vẹt nhưng dáng người và phần mỏ nhỏ hơn. Trên thế giới hiện nay có khoảng 50 loài chim Yến Phụng khác nhau.
Điểm để người ta yêu thích loại chim này đó chính là tính dịu dàng và khả năng làm quen đến mức thân thiện và gần như là tin tưởng tuyệt đối của chúng đối với tất cả các thành viên trong gia đình.
Vàng anh là một trong những loại chim cảnh ở Việt Nam được nhiều người yêu thích, nó sở hữu một bộ lông vàng với thân hình nhỏ nhắn. Loài chim này khá dễ nuôi, nó không cần quá cầu kì trong cách nuôi dưỡng chăm sóc, không cần đòi hỏi chủ nhân của chúng phải chăm chút từng giờ những chú chim vàng anh vẫn khỏe mạnh và thánh thót trong từng âm vực trong giọng cả của mình. Thức ăn của chúng có thể là các loại côn trùng và hoa quả rất dễ tìm kiếm.
Đây là loại chim sở hữu một giọng ca xuất sắc, chúng có một màu lông khá đặc trưng, giống chim này rất dễ dàng trong chuyện ăn uống chúng có thể ăn được các loại ngũ cốc khác nhau cách chăm sóc cũng không cầu kì. Tuy nhiên khi nuôi loài chim này bạn cần phải cho chúng một khoảng lồng đủ rộng để chúng có thể sống một cách thoải mái nhất.
Có tên khoa học là Garrulux Canorus, chúng thường sinh sống ở các khu rừng, vườn cây, công viên,… Chim Họa Mi thường có màu lông vàng hoặc hạt dẻ tùy từng loại, vùng miền sinh sống. Để nhận biết Chim Họa Mi như thế nào thì bạn hãy nhìn vào mắt chúng, chim họa mi sẽ luôn có một đường viền trắng nhỏ quanh mắt.
Chúng là một trong các loại chim hót hay nhất ở nước ta. Tuy nhiên không phải con nào cũng có thể hót hay, một số con có giọng hơi khàn, thấp sẽ không được đánh giá cao. Chim Họa Mi chuẩn phải có giọng cao, vang và hót được nhiều loại âm thanh.
Chào Mào cũng là một trong các loại chim cảnh thường nuôi trong nhà được nhiều người yêu thích. Loài chim này sống theo bầy đàn, ăn các loại côn trùng nhỏ và hoa quả. Khi làm tổ chúng sẽ quấn các sợi rơm, cành cây nhỏ thành hình cái cốc nhỏ.
Đặc điểm nhận dạng dễ nhất của loài chim này là phần mào hình tam giác nhô hẳn lên trên đầu, lông chim có màu nâu nhạt, đậm nhất ở phần đầu và mào. Hiện nay tại Việt Nam có hơn 20 loại Chào Mào khác nhau như: huế, bạch, nữ hoàng, bạch tạng,…
Vẹt là loài chim thuộc bộ Psittaciformes, với gần 372 loài và 86 chi, chủ yếu sống ở vùng nhiệt đới ấm áp. Bộ vẹt được chia ra làm ba siêu họ, loài này được phân bố khắp các miền nhiệt đới và một số loài sinh sống trong vùng ôn đới Nam bán cầu.
Chế độ ăn uống của các loài vẹt thường là hạt, trái cây, chuối, chồi và các bộ phận thực vật khác, số ít loài ăn động vật và xác thối. Đa phần các loài vẹt làm tổ trong các hốc cây. Đây được xem là một loài chim cảnh đẹp và thông minh khi có thể bắt chước được tiếng người.
Các Loài Chim Quý Hiếm Ở Việt Nam Đang Bị Đe Doạ
Cò mỏ thìa mặt đen, một trong những loài chim quý hiếm đang được bảo vệ tại việt Nam.
Hầu hết các loài chim sống tại khu bảo tồn thiên nhiên ở Việt Nam đang bị đe doạ bởi các tay săn trộm và áp lực của một nước đang phát triển. Đó là lời cảnh báo gần đây nhất của các nhà nghiên cứu môi trường thuộc Tổ chức quốc tế về bảo vệ chim trên thế giới.
Các nhà nghiên cứu cho rằng mối đe doạ chủ yếu đến từ các tay săn trộm trong các khu bảo tồn. Bên cạnh đó là những sức ép về việc mở rộng diện tích đất nông nghiệp ở Việt Nam. Tuy nhiên, Tổ chức này cũng dành lời khen ngợi cho những cố gắng của Chính phủ Việt Nam nhằm bảo vệ các loài động vật quý hiếm.
Ông Richard Grimmet, Trưởng chi nhánh của tổ chức này ở châu Á, nói: “”Các động vật hoang dã như gấu, nhóm động vật linh trưởng và một số loài bò sát bị đánh bắt, rất nhiều. Hiện nay các cá thể này chỉ còn tồn tại với một con số ít ỏi. Điều này có nhiều nguyên nhân. Tuy nhiên, nó có lẽ bắt nguồn từ thời điểm mà Việt Nam mở cửa biên giới của mình với các nước khu vực. Bên cạnh đó, những dự án mở rộng đường nông thôn đến với các vùng sâu, vùng xa cũng ảnh hưởng không nhỏ””.
Ông Grimmet nhấn mạnh: “”Tuy nhiên, tất cả cũng chưa đến nỗi quá tối tăm. Phải nói rằng Chính phủ Việt Nam đã có những cố gắng không biết mệt mỏi nhằm cứu vãn các khu bảo tồn. Theo chúng tôi được biết, hiện đã có hơn 6 khu bảo tồn quý hiếm đã được Chính phủ Việt Nam xây dựng đề án bảo vệ””.
Các động vật quý hiếm bị săn bắn bừa bãi.
Chim bói cá cánh vàng.
Trong những khảo sát mới đây của các nhà nghiên cứu môi trường, có ba cá thể chim mới đã được phát hiện tại Việt Nam. Đó là chim bói cá cánh vàng, chim bói cá – tai hạt dẻ (chùm lông nằm bên phía tai của chim có màu hạt dẻ) và một loài chim có chỏm lông trên đỉnh đầu giống như chiếc mũ miện màu đen. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng là một trong những nơi hiếm hoi trên thế giới còn tồn tại một vài cá thể tê giác cự kỳ quý hiếm. Chúng đang bị đe doạ tuyệt chủng trên khắp toàn cầu. Một số động vật quý hiếm cũng đã được tìm thấy ở khu vực Đông Nam Á này. Đó là loài hươu nhỏ nhất thế giới được tìm thấy ở Burma; loài thỏ có bộ lông kẻ sọc được tìm thấy ở vùng núi giáp ranh Việt Nam, Lào. Đặc biệt, có một số loài lợn rừng quý hiếm và một số động vật có vú như sao la, linh dương cũng được tìm thấy trong khu vực này.
(Mạnh Trường – Theo BBC)
Ngôn Ngữ Của Các Loài Chim
19. Ngôn ngữ của các loài chim
Việc tìm hiểu “ngôn ngữ” của các loài chim đã từ lâu hấp dẫn sự chú ý của nhiều người và biết bao nhiêu câu chuyện dân gian của nhiều dân tộc đã kể về những con người tài ba, có thể nói chuyện được với chim muông. Nhưng đó chỉ là những câu chuyện thần thoại!
Hiện nay, những người như giáo sư Xôke ở Hungari, Lôren ở Đức, Tinbengen ở Anh và Lecman ở Mỹ cũng là những người gần như có thể hiểu được tiếng chim. Họ đã bỏ biết bao nhiêu công sức để nghiên cứu về tiếng nói của các loài chim, nhưng dầu sao cũng không ai trong họ quả quyết rằng mình có thể dịch được tiếng chim ra tiếng người. Chúng ta đã công nhận rằng chim phần nào có khả năng học tập, nhưng chắc chắn rằng “ngôn ngữ” của các loại chim lại là một thứ ngôn ngữ bẩm sinh, không giống với ngôn ngữ của loài người là phải học mới nói được.
Trong thứ “ngôn ngữ” của chim, tiếng hót giữ vai trò quan trọng. Vì sao chim hót và tiếng hót của chim có ý nghĩa gì? Để tìm hiểu điều đó có lẽ trước tiên chúng ta nên phân biệt tiếng hót và mọi loại tiếng kêu khác của chim. Olin Xêoan Pettingin, giám đốc phòng nghiên cứu chim ở Trường Đại học Cócnen đã đưa ra định nghĩa về tiếng hót của chim là “một chuỗi âm thanh được lặp đi lặp lại theo những cách đặc trưng và thường là do con trống phát ra trong mùa sinh sản”. Giáo sư Mansepxki ở Trường Đại học tổng hợp Lêningrát lại định nghĩa tiếng hót của chim là “những dấu hiệu đưa đến sự gặp gỡ giữa chim trống và chim mái đồng thời đó là tín hiệu của sự chiếm lĩnh vùng làm tổ và sự xác định ranh giới vùng đó”. Cả hai cách định nghĩa trên đều có ý tránh không dùng từ “phát âm” với hàm ý tiếng hót còn bao gồm cả những tiếng gõ nhịp nhàng của con gõ kiến hay tiếng đập cánh của gà rừng v.v…
Có những điệu hót nghe thánh thót, du dương, âm điệu phong phú như những bài ca tuyệt diệu của họa mi, khướu, chích chòe, sơn ca, những “ca sĩ” rất mực tài ba trong các loài chim ở nước ta. Nhưng cũng có những “điệu hót” nghe chói tai hay lê thê, một thứ tiếng không phải là âm nhạc như tiếng chèo chẹo ở rừng Tây bắc hay tiếng kêu “mùa khô” liên hồi của một loài chim cú rốc trong các rừng khộp ở Tây Nguyên. Dù đó là điệu hát mê li của loài sáo sống trong các cánh rừng mơ rộng ở Mêhicô hay là tiếng nấc lên buồn thảm của loài cuốc ở đồng ruộng vùng đông nam châu Á thì ý nghĩa của tiếng hót đều cơ bản như nhau. Trước hết đó là tiếng của chim trống công bố vùng đất sở hữu của mình và báo cho các chim trống đồng loại biết mà tránh xa, còn đối với chim mái thì đó lại là tiếng nói tỏ tình, là dấu hiệu tỏ rõ mình là trang nam nhi tuấn tú. Người giầu cảm xúc thường nghĩ rằng những khúc giai điệu mùa xuân của các loài chim là bài hát ca tụng niềm vui, thì thật khó mà tin được rằng đó thường lại chỉ là lời công bố về quan hệ pháp lý – một lời tuyên bố cứng rắn với kẻ đối thủ mà thôi. Tiếng hót càng liên tục hơn, càng hăng hái hơn khi ca sĩ biết rằng có một con chim trống khác đồng loại đang nghe, và hẳn là khi có kẻ vi phạm đường biên giới vô hình của vùng đất đã được xác định, hắn sẽ bị đánh đuổi, nhưng thường là chỉ nghe tiếng hót hăng hái thôi cũng đủ khiến hắn phải lảng ra xa rồi.
Tiếng hót vào đầu mùa xuân có lẽ là tiếng hót mạnh mẽ nhất, dứt khoát nhất, dai dẳng nhất và cũng là lời tuyên bố đanh thép nhất. Ngay một tiêu bản của chim trống nhồi, dù vụng về đến mấy mà đặt vào trong vùng lãnh thổ của một con chim đang hót đó, nó cũng xông vào đánh, đặc biệt là khi có máy ghi âm phát thêm tiếng để gợi sự chú ý nữa. Nhưng một con chim cổ đỏ sẽ không công kích một con sẻ nhồi, hoặc một con sáo. Nó chỉ phản công đối với chim cổ đỏ mà thôi. Davít Lac ở trường Đại học Oxfo khi thí nghiệm với con chim cổ đỏ nước Anh, ông đã phát hiện ra rằng cái mà làm cho con cổ đỏ nổi xung lên chính là cái ngực đỏ của đối thủ. Ngay chỉ một chùm lông ngực đỏ quấn vào dây thép cũng bị tấn công dữ dội. Thậm chí khi cái đó đã được cất đi, con chim vẫn hăng hái xông vào đánh chỗ đặt chùm lông. Nói chung những kiểu dựng lông cổ lên, những màu sắc rực rỡ của bộ lông, hay là mọi thứ trang hoàng khác chỉ xuất hiện vào mùa sinh sản đều là có ý nghĩa khiêu khích hay hăm dọa đối với con trống khác, đồng thời lại là cái để chinh phục các con chim mái. Sự tấn công và đánh trả đã làm cho tiếng hót của chim phát triển đến mức cao độ và nếu như không có những sự kiện này thì cuộc sống của con chim hẳn là mất đi nhiều vẻ quyến rũ của nó.
Nếu như một con chim trống nhồi đã có thể kích nên một trận đánh nhau ác liệt thì không có gì lạ là một con chim mái nhồi lại gây nên một phản ứng ngược lại. Cũng tiếng hót đó nhưng bây giờ nó có vẻ êm dịu hơn, thánh thót hơn. Dầu cho con chim nhồi có tỏ vẻ lãnh đạm, thì cũng không hề gì. Chừng nào nó còn tỏ ra là một con chim mái của loài đó, thì nó vẫn còn vẻ hấp dẫn và con chim trống nồng nhiệt bị lừa kia vẫn cứ hót và quay đi quay lại xung quanh cái tiêu bản nhồi ngay cả khi nó đã bị vặt cả đầu lẫn cánh.
Uynliam Vốt trong khi nghiên cứu về con sẻ bụng vàng trống, đã làm thay đổi màu sắc của một con mái nhồi bằng cách dán một dải băng đen qua mặt nó (con trống của loài này có dải đen đó, con mái không có). Khi con trống quay trở lại, theo nhận xét của Vốt thì phản ứng đầu tiên của nó là sững sờ vì ngạc nhiên, “dường như chim mái đã phản bội”, sau đó nó xông vào đánh kẻ lừa gạt.
Chim mái cũng có tiếng nói riêng của nó để tỏ tình. Khi một con chim mái bị hấp dẫn bởi tiếng hót của chim trống mà đến gần thì đầu tiên, con chim trống còn hăm dọa nó. Nhưng nó đã biết làm nguôi cơn giận của chim trống bằng một dấu hiệu xoa dịu, một cử chỉ tế nhị, một tiếng kêu dịu dàng mà chỉ đồng loại mới thông cảm được như cái vẩy đầu duyên dáng mà điển hình của con mòng biển đầu đen, hay nhịp vỗ cánh kiểu đòi ăn của chim non với tiếng kêu chíp chíp để biểu thị sự quy phục của nhiều loài chim cỡ nhỏ. Đó là một kiểu nói chuyện có tính chất “làm nũng”, “trẻ con” của loài chim nhưng lại dẫn đến sự kết đôi trong mùa sinh sản.
Tiếng hót của các loài chim thường được bắt đầu từ lúc sáng sớm. Nó cất lên hăng hái rộn ràng nhất vào lúc Mặt trời vừa mọc, giảm dần cho đến lúc gần trưa để rồi lại tiếp tục mạnh lên vào khoảng xế chiều. Tiếng hót của nhiều loài chim, hình như không biết mệt mỏi, nó vang lên từ lúc mới rạng đông và kéo dài không dứt cho đến tận chiều tối như tiếng của nhiều loài chim sống trong các khu rừng rụng lá bao la vào mùa khô ở miền Tây nam nước ta hay tiếng của chèo chẹo, tu hú, cu rốc có ở nhiều vùng. Cũng có một số loài chim mà tiếng “hót” của chúng kéo dài cả suốt đêm khuya như cuốc và tìm vịt. Đó là những tiếng hót đầu mùa sinh đẻ của các loài chim, lúc mà ranh giới vùng làm tổ còn có chỗ tranh chấp và cũng là lúc mà nhiều chim trống chưa tìm được bạn lứa đôi. Nhưng rồi ít lâu sau, tiếng hót của chim có phần thưa bớt, nhưng lại giàu tính chất tình cảm. Nó mang nhiều ý nghĩa khẳng định lòng trung thành giữa đôi bạn trong mùa sinh đẻ hơn là để xác định vùng đất, vùng trời.
Dường như trong thế giới các loài chim có một quy luật bù trừ là những loài có màu sắc giản dị lại là những ca sĩ tài ba. Về điều đó. chúng ta có thể nghĩ rằng những loài chim có bộ lông rực rỡ thì ngôn ngữ để tỏ tình cảm của chúng chính là màu sắc, là dáng điệu như các loài chim thiên đường, công, trĩ. Còn những loài chim có màu nâu xám của đồng ruộng như sơn ca, chiến chiện chúng không có bộ cánh bảnh bao và không có vẻ đẹp bề ngoài hấp dẫn, màu lông của chúng mộc mạc như hòn đất, củ khoai thì thiên nhiên đã phú cho chúng giọng hót mê ly. Chúng bay bổng lên cao và ngự trị cả một vùng rộng lớn bằng giọng hót véo von không dứt của chúng.
Trước khi có máy ghi âm hiện đại, Arêtas Xaođơ, nhà phân tích tài ba về tiếng hót của chim đã sáng tạo ra một hệ thống ký hiệu để ghi lại và diễn đạt bằng hình tiếng hót của chim. Dựa vào đôi tai phi thường của mình và hệ thống ký hiệu, ông đã phát hiện ra rằng trong nhiều loài chim không bao giờ có 2 tiếng hót của 2 cá thể hoàn toàn giống nhau. Qua nhiều năm nghiên cứu ông đã ghi lại được 884 dạng tiếng hót khác nhau của chim sẻ lưng vàng ở Bắc Mỹ. Ít năm sau, Bôro tiếp tục nghiên cứu sâu hơn với chiếc máy ghi âm. Ông tập trung nghiên cứu tiếng hót của chim sẻ lưng vàng ở đảo Hốt. Ông đã ghi được 462 lần tiếng hót của nó và khi phân tích thì thấy rằng có 13 kiểu hoàn toàn khác biệt và 187 kiểu phụ. Tuy thế nhưng tính chất cơ bản thì vẫn như nhau và qua mỗi điệu đều có thể nhận biết ngay là tiếng hót của sẻ lưng vàng.
Rõ ràng là những nét khác biệt trong tiếng hót của các cá thể mà tai chúng ta không nhận biết được đã giúp cho chim nhận ra hàng xóm của mình và phát hiện ra kẻ lạ mặt.
Máy ghi âm đã góp phần quan trọng vào việc nghiên cứu tiếng hót của chim. Nhờ có máy mà người ta đã ghi được nhiều thứ tiếng hót khác nhau của chim. Máy ghi âm còn dùng để phân tích tiếng chim, bằng cách cho máy chạy chậm lại lúc phát tiếng ra hay cho băng ghi âm qua giao động ký. Nhờ cách phân tích như vậy mà người ta đã phát hiện được nhiều điều lý thú trong tiếng hót của chim và một khoa học mới đã ra đời: khoa âm sinh học.
Âm thanh của chim phát ra không phải chỉ có tiếng hót mà còn có nhiều thứ tiếng kêu khác (như ta thường hay gọi) do chim phát ra trong những hoàn cảnh khác nhau. Ta có thể chia âm thanh của chim ra làm 5 loại chính với ý nghĩa: 1) hoạt động tập hợp thành bầy, 2) báo có thức ăn, 3) báo có kẻ thù, 4) thể hiện tình cảm mẹ con và 5) biểu thị tình yêu và xung đột. Tiếng hót của chim dĩ nhiên là nặng về ý nghĩa cuối cùng này. Ngoài ra trong khi bay di cư nhất là về đêm chim thường phát ra một thứ tiếng ngắn gọn, mà không nghe vào những lúc nào khác. Tất nhiên những âm thanh này chỉ có ý nghĩa là để thông tin với nhau về đường bay, lúc không trông thấy nhau vì cách xa nhau hay vì tối trời.
Khi quan sát chim hoạt động trong thiên nhiên chúng ta có thể nhận thấy được một cách dễ dàng ý nghĩa của những âm thanh mà chúng phát ra từng lúc. Trên bãi phù sa ở cửa sông Hồng nơi một bầy ngỗng trời về đây trú đông đang kiếm mồi, chúng chuyện trò rầm rì nho nhỏ, nhưng bỗng một tiếng rống to báo hiệu, tất cả vội vàng cất cánh và khi cả đàn chim đã bốc lên cao, dàn thành hình mũi tên dài, bay về phía chân trời thì cả đàn lại cất lên một điệu hợp xướng sôi nổi. Hẳn là mỗi thứ âm thanh mà đàn ngỗng phát ra đều mang ý nghĩa riêng của nó.
Tiếng kêu báo động cũng là một thứ tiếng phổ biến của các loài chim, và tùy theo mức độ nguy hiểm mà tiếng kêu đó có khác nhau. Một con gà mái khi nhận thấy có bóng dáng diều hâu, nó liền phát ra một thứ tiếng chói tai khiến cho đàn gà con tản ngay vào chỗ ẩn nấp, nằm im thin thít, còn khi có con chó hay người lạ đến gần thì tiếng báo động chỉ là tiếng cục tác và đàn gà con cũng chỉ chạy xúm lại gần mẹ mà không tìm chỗ ẩn nấp như khi có diều hâu.
Có thể nói rằng mọi âm thanh mà chim phát ra đều mang một ý nghĩa riêng, nó là một thứ “lời nói”, một thứ “ngôn ngữ” để thông báo cho đồng loại biết một tin tức nhất định nào đó. Thậm chí các loài chim khác nhau cùng chung sống với nhau ở một môi trường như trong một cánh rừng, trên một vùng đồng lầy, không những hiểu được nhiều thứ tiếng kêu của các loại khác như tiếng kêu gọi đàn, tiếng kêu xuất phát, tiếng gọi tập hợp, tiếng gọi đến ăn, tiếng báo động…, giống như một người nói tiếng Việt mà đồng thời nhận ra ý nghĩa cơ bản của những câu nói bằng tiếng Nga, tiếng Anh, tiếng Pháp mà người ấy không biết.
Tác phẩm, tác giả, nguồn
Tác phẩm: Đời sống các loài chim
Tác giả: Võ Quý
Nhà xuất bản Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội – 1978
Đôi dòng về tác giả: GS. Võ Quý: Ông dành cả cuộc đời say sưa nghiên cứu các loài chim và có nhiều đóng góp lớn cho khoa học môi trường Việt Nam và thế giới. Ông là người Việt Nam đầu tiên ở Châu Á giành được giải thưởng Blue Planet Prize về môi trường.
Thông Tin Các Loài Chim
Về đặc điểm đặc trưng:
Chim Huế thường nhỏ và vừa chim, ít chim to, yếm không đen đậm kéo sâu xuống cổ. Mào chim chủ yếu là đinh, mào rơm (mào cui), mào lân rất ít. Dáng chim không được dài lắm, chim căng lửa mới có con đuôi xếp 1 cọng, lưng tôm, dáng đứng cao, nói chung dáng chim Huế không dài đẹp bằng chim Qui Nhơn, Bình Định, Đà Nẵng.
Về chất giọng chào mào Huế có cái đặc biệt là chất giọng đặc trưng và được chia làm 2 giọng chính là giọng thổ (trầm) và giọng chuông (thanh). nếu ai may mắn sở hữu được chú có giọng thổ (trầm) thì nghe rất đã, giọng khi sổ ra có uy lực, quát, đanh. thường thì chào mào Huế cũng chỉ sổ khoảng 6 âm, khi nào căng quá hay gặp đối thủ thì sổ giọng đôi, giọng ba từ 8 âm đến 10 âm (rất ít). giọng chuông thì phổ biến hơn, nói giọng chuông chứ không hoàn toàn thanh như chào mào Bàu Công hay Thủ Đức (Bình Dương) mà còn có pha lẩn 1 chút trầm nhẹ. nghe âm điệu trầm bổng xen kẽ. Nước đấu, ra giọng đều, ít chơi cánh, hay bu bám lồng đòi đá hay dọa nẹt các con khác. Chim Huế đi chơi đấu trường tương đối tốt.
Đặc điểm riêng chim Chào mào Huế của các vùng như sau:
Phía Bắc của tỉnh Thừa thiên Huế, Phong Sơn là một xã thuộc Huyện Phong Điền xã này nằm ở Khu du lịch suối nước nóng Thanh Tân nổi tiếng chắc ai cũng biết, đi theo hướng này lên phía Bắc có xã Phong Mỹ (Chiến khu Hòa Mỹ) vùng này chim rất hay nhưng giờ rất hiếm chim, phải vào tận rừng sâu mới thấy được vài con. Đặc điểm của chim Phong Sơn ra giọng dài hay luyến láy đảo giọng, dáng chim nhỏ, dữ chim, đấu đá tốt.
Dòng chim Kim Phụng là chim nổi tiếng nhất của Huế hầu như là anh em Huế đã chơi chào mào đều thừa nhận là “giọng chim hay nhất của Huế”. Hiện nay chim Kim Phụng rất hiếm, không còn nũa, gần như bị tiệt chủng 100%, giờ chỉ còn chim di cư, rất ít chim gốc.
Vùng Diên Hòa có giống chim Khe Vàng có chất giọng láy luyến tốt, thu hút lòng người, đặc điểm của dòng chim này khó nuôi rất lâu nổi.
Ngoại ô thành phố Huế, có giống chim Chằm, dòng chim này rất dữ, giọng hay, nhưng hiện nay dòng chim này khá hiếm, hầu như không còn nữa.
Phía Nam, có vùng A Lưới, xã Hồng Vân, Hồng Thuỷ…… chim A lưới dáng to đẹp ít có chim trời già, ra giọng lắt rắt không rõ ràng, dòng chim này được nhiều anh em Huế đi bẫy, vì dễ đi và dễ bẫy. Đây cũng là nguồn chim bổi lớn nhất của A lưới được cung cấp chuyển ra cho các Tỉnh phía Bắc và cả nước.
Dòng chim Bình Điền, Bình Thành rất hay tiếng thổ to, vang, tướng dữ chim, dáng to đẹp, đấu đá chơi trường rất bền chim.
Vùng Nam Đông không rộng nhưng có nhiều xã nhỏ như: Hương Sơn, Hương Hòa, Thượng Nhật, Phú Mậu, Thượng Long, Thượng Quảng,… Chim Nam Đông mỗi vùng có một chất riêng biệt, có vùng hay và dở. Hay và dở chỉ mang tính tương đối. Vùng hay thì 10 con có 7 hay 3 dở, và vùng dở thì ngược lạị.
Hương Sơn: chim có giọng rõ ràng, thánh thót, đặc biệt rất trong, nhưng bộ yếm đa số không kín cho lắm.
Hương giang: là vùng chim có chất giọng không được rõ ràng, luyến láy và đảo giọng ít.
Thương Long, Thượng Quảng là vùng chim rất hay hót dài, tiếng đanh, luyến láy hay đảo giọng nhiều. Dòng chim này chơi giọng thì hay nhưng đấu đá không bền chim.
Hương Lộc: chim khá to, giọng cũng to, ướm có những con rất đậm và kín. Chim ít dữ.
Chim vùng đồi Năm heo (thuộc thác trời): chim đẹp, giọng lai Hương Sơn nên rất hay, chim dữ, dễ huấn luyện thành mồi.
Phú Mậu: giọng nhanh, chim yếm ngắn là nhiều, đặc biệt chim vùng này dữ nhưng ở ngoài trời lâu bắt được. Có con đi đánh mất gần 3 tiếng, nó chi đấu giọng với mồi, sau đó mới đá.
Ngoài chim Huế các vùng miền trên còn có chim các vùng như: Đèo A co, chim vườn quốc gia Bạch Mã, chim Tà Lương…. đều là những dòng chim có giọng đặc trưng riêng của vùng miền, các vùng chim đi đấu đều rất tốt.
20 Các Loài Chim Cảnh Nhỏ Thường Nuôi Trong Nhà Ở Việt Nam
Tùy vào đặc điểm khí hậu của mỗi vùng miền mà lông của chim Sơn Ca sẽ có sự khác biệt đôi chút. Nếu như ở Huế lông chim có màu vàng hơn bình thường và có hình vảy cả trên trán thì Sơn Ca Đà Nẵng lại có vân khía ở trán.
Tuy nhiên không phải con nào cũng hót hay, một số con có giọng hơi khàn, thấp sẽ không được đánh giá cao. Chim Họa Mi chuẩn phải có giọng cao, vang và hót được nhiều loại âm thanh.
Đặc điểm nhận dạng dễ nhất của loài chim cảnh Việt Nam này là phần mào hình tam giác nhô hẳn lên trên đầu. Có lẽ chính vì vậy mà cái tên Chào Mào ra đời. Lông chim có màu nâu nhạt, đậm nhất ở phần đầu và mào.
Là một trong các loài chim cảnh nhỏ được nuôi phổ biến tại Việt Nam, chim Chích Chòe có thân hình nhỏ nhắn cùng đôi chân nhảy thoăn thoắt trên các cảnh cây. Loài chim này thường hót vào lúc giữa trưa hoặc tối muộn nên thường được nuôi ở các nơi công cộng như quán cafe, vườn chim,…
Ở Việt Nam có hai loài Chích Chòe phổ biến là Chích Chòe Than và Chích Chòe Lửa. Hai loài nhỏ này khá giống nhau nhưng vẫn có một vài điểm khác biệt nhỏ.
Chích Chòe Than có màu đen gần như toàn thân, chỉ có hai vệt dài trên cánh và phần bụng là màu trắng. Còn Chích Chòe Lửa thì khác một chút ở phần bụng màu vàng, còn đâu phần lông trên thân chỉ nhạt màu hơn đối với con cái.
Thời gian sinh sống của loài chim cảnh này rất lâu, với những con bé có thể là 20 – 30 năm, con to thì 60 – 80 năm nếu được chăm sóc đúng cách. Khi nuôi trong nhà bạn nên chọn lồng hình chữ nhật, hình vuông, tránh chọn lồng hình tròn khiến chim cảm thấy không an toàn.
Chắc hẳn ai cũng biết đến loài chim cảnh “Vàng Ảnh Vàng Anh” trong câu chuyện cổ tích Tấm Cám. Thuộc các loài chim hót hay nhất, chim Vàng Anh còn được gọi là chim Hoàng Anh, có giọng hót thánh thót rất dễ vào lòng người.
Chim Vàng Anh luôn nổi bật với màu lông vàng rực. Chim mái và chim trống sẽ có ánh màu khác nhau đôi chút. Chim Vàng Anh cũng thuộc các loại chim sâu ở Việt Nam nên thường được nuôi để diệt sâu và trang trí.
Khi nuôi bạn nên chú ý thức ăn cho Vàng An để tránh chim không thân thiện với chủ. Loài chim cảnh này thường lảng tránh và tỏ ra nhút nhát nếu không được cho ăn ngon.
Thuộc các loại chim cảnh đẹp nên không khó để thấy loài chim này trong nhà người nuôi chim tại Việt Nam. Thức ăn dành cho chim Sáo cũng khá dễ tìm như sâu bọ, cào cào, cơm,… Nếu bạn nuôi trong lồng thì nên cho ăn chuối, lạc trộn trứng, cơm,… thì sẽ hợp lý.
Trên thế giới có khoảng 30 loài chim sáo khác nhau nhưng phổ biến hơn cả là chim sáo đá xanh mỏ vàng, chim sáo đen và chim sáo nâu. Mỗi loài đều có sự khác biệt đôi chút về hình dáng, màu lông và tập tính ăn uống.
Loài chim cảnh Việt Nam này hay sống theo đàn nhỏ ở các vùng núi, làm tổ trong các bụi cây, có mái che hoặc hình cái chén. Ở Việt Nam phổ biến hai loại Khướu là Khướu Mun và Khướu Ô.
Khi nuôi chim Khướu bạn không nên nuôi trong lồng sắt vì nếu chim mổ, cắn phải hoặc chạm vào dẫn đến bị thương thì rất khó lành.
Tiếp tục là một trong các loại chim cảnh hót hay, chim Cu Gáy có tiếng hót được ví với tiếng sáo trúc, nghe rất thánh thót. Bạn sẽ gặp loài chim cảnh Việt Nam này ở các vùng quê yên tĩnh. Thức ăn của chim Cu Gáy thường là lúa, đậu, mè, sâu bọ,…
Trong các loài chim cảnh nhỏ thì chim Cu Gáy có màu lông khá phổ biến là màu xám. Tuy nhiên đặc điểm nhận dạng của loài này là các đốm trắng điểm xuyết trên lông cổ và cánh. Phần bụng chim có màu nâu rất nhạt, khi xờ có cảm giác mềm và xốp.
Mắt chim Cu Gáy có màu nâu đỏ, mí mắt cũng có màu đó nên nhìn rất sắc. Loài chim cảnh này có giọng hót hay nên thường được nuôi làm cảnh trong nhà, vườn hoặc các quán cafe thiên nhiên,…
Chim Khuyên là một trong các loài chim cảnh nhỏ được nuôi nhiều nhất ở Việt Nam nhờ màu lông đẹp và tiếng hót hay. Thân hình của chim Khuyên nhỏ nhắn, lọt thỏm trong bàn tay của người trưởng thành. Đầu chim khá to so với phần thân, trán rộng và cao, mắt hơi xếch nhẹ, có viền trắng xung quanh mắt.
Phần lông chim Khuyên thường có màu vàng rực hoặc pha xám xanh ở cánh. Đặc biệt loài chim hót hay này còn có khả năng bắt chước giọng hót của một số loài chim khác như chim Chích Chòe. Thức ăn của loài chim này chủ yếu là côn trùng, mật hoa, quả nhỏ,…
Ở Việt Nam có hai loài Khuyên phố biến là Khuyên xanh và Khuyên vàng. Nếu một con chim Khuyên có màu lông đột biến thì sẽ có giá thành rất cao. Như danh hiệu chim khuyên đắt nhất thuộc về con chim của anh Lý Hùng Tú (Hà Nội), từng được trả giá lên đến 10.300 USD.
Trong các loài chim ở Việt Nam thì chim Yến Phụng là loài chim có dáng khoằm, mỏ sắc nhọn, mắt tròn và to. Những ai nuôi chim cảnh thường rất thích thú và muốn sở hữu một chú chim Yến Phụng. Đặc biệt người ta thường nuôi Yến Phụng theo cặp và nuôi trong các lồng to để chim được phát triển tốt nhất.
Chim Yến Phụng thường ăn các loại thực vật như xà lách, rau cải, rau muống. Khi nuôi chim cảnh như Yến Phụng bạn nên chú ý tắm thường xuyên cho chúng để giữ sạch sẽ và khỏe mạnh. Loài chim này có thể nới được tiếng người nhưng cần mất thời gian khá dài để huấn luyện chúng.
Yến Phụng là một dòng nhỏ trong họ Vẹt nên có màu lông đa sắc như Vẹt nhưng dáng người và phần mỏ nhỏ hơn. Trên thế giới hiện nay có khoảng 50 loài chim Yến Phụng khác nhau.
Loài chim cảnh này không quá rực rỡ nhưng lại sở hữu vẻ đẹp giản dị, dễ chịu. Lông chim có màu xám bút chì, phần đầu và đuôi có màu đen đậm nhưng ở giữa bụng, ngực lại có màu trắng.
Nhìn chung đây là loài chim dễ nuôi, không quá tốn, hơn nữa lại là loài chim hót hay nên rất được giới nuôi chim cảnh ưa chuộng.
Loài chim cảnh Việt Nam này thường sống ở các khu vực đông dân, các đồng ruộng,… nơi có nhiều nguồn thức ăn và nước uống. Mỗi lần sinh sản chim Chìa Vôi thường để 3 – 8 quả trứng vào tháng 4 – 8 hàng năm.
Những gợi ý này đã đủ cho bạn khi mua chim
Cập nhật thông tin chi tiết về Phong Phú Các Loài Chim Ở Sơn Trà trên website Raffles.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!