Xu Hướng 5/2023 # Ngôn Ngữ Của Các Loài Chim – Kipkis # Top 14 View | Raffles.edu.vn

Xu Hướng 5/2023 # Ngôn Ngữ Của Các Loài Chim – Kipkis # Top 14 View

Bạn đang xem bài viết Ngôn Ngữ Của Các Loài Chim – Kipkis được cập nhật mới nhất trên website Raffles.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

19. Ngôn ngữ của các loài chim

Việc tìm hiểu “ngôn ngữ” của các loài chim đã từ lâu hấp dẫn sự chú ý của nhiều người và biết bao nhiêu câu chuyện dân gian của nhiều dân tộc đã kể về những con người tài ba, có thể nói chuyện được với chim muông. Nhưng đó chỉ là những câu chuyện thần thoại!

Hiện nay, những người như giáo sư Xôke ở Hungari, Lôren ở Đức, Tinbengen ở Anh và Lecman ở Mỹ cũng là những người gần như có thể hiểu được tiếng chim. Họ đã bỏ biết bao nhiêu công sức để nghiên cứu về tiếng nói của các loài chim, nhưng dầu sao cũng không ai trong họ quả quyết rằng mình có thể dịch được tiếng chim ra tiếng người. Chúng ta đã công nhận rằng chim phần nào có khả năng học tập, nhưng chắc chắn rằng “ngôn ngữ” của các loại chim lại là một thứ ngôn ngữ bẩm sinh, không giống với ngôn ngữ của loài người là phải học mới nói được.

Trong thứ “ngôn ngữ” của chim, tiếng hót giữ vai trò quan trọng. Vì sao chim hót và tiếng hót của chim có ý nghĩa gì? Để tìm hiểu điều đó có lẽ trước tiên chúng ta nên phân biệt tiếng hót và mọi loại tiếng kêu khác của chim. Olin Xêoan Pettingin, giám đốc phòng nghiên cứu chim ở Trường Đại học Cócnen đã đưa ra định nghĩa về tiếng hót của chim là “một chuỗi âm thanh được lặp đi lặp lại theo những cách đặc trưng và thường là do con trống phát ra trong mùa sinh sản”. Giáo sư Mansepxki ở Trường Đại học tổng hợp Lêningrát lại định nghĩa tiếng hót của chim là “những dấu hiệu đưa đến sự gặp gỡ giữa chim trống và chim mái đồng thời đó là tín hiệu của sự chiếm lĩnh vùng làm tổ và sự xác định ranh giới vùng đó”. Cả hai cách định nghĩa trên đều có ý tránh không dùng từ “phát âm” với hàm ý tiếng hót còn bao gồm cả những tiếng gõ nhịp nhàng của con gõ kiến hay tiếng đập cánh của gà rừng v.v…

Có những điệu hót nghe thánh thót, du dương, âm điệu phong phú như những bài ca tuyệt diệu của họa mi, khướu, chích chòe, sơn ca, những “ca sĩ” rất mực tài ba trong các loài chim ở nước ta. Nhưng cũng có những “điệu hót” nghe chói tai hay lê thê, một thứ tiếng không phải là âm nhạc như tiếng chèo chẹo ở rừng Tây bắc hay tiếng kêu “mùa khô” liên hồi của một loài chim cú rốc trong các rừng khộp ở Tây Nguyên. Dù đó là điệu hát mê li của loài sáo sống trong các cánh rừng mơ rộng ở Mêhicô hay là tiếng nấc lên buồn thảm của loài cuốc ở đồng ruộng vùng đông nam châu Á thì ý nghĩa của tiếng hót đều cơ bản như nhau. Trước hết đó là tiếng của chim trống công bố vùng đất sở hữu của mình và báo cho các chim trống đồng loại biết mà tránh xa, còn đối với chim mái thì đó lại là tiếng nói tỏ tình, là dấu hiệu tỏ rõ mình là trang nam nhi tuấn tú. Người giầu cảm xúc thường nghĩ rằng những khúc giai điệu mùa xuân của các loài chim là bài hát ca tụng niềm vui, thì thật khó mà tin được rằng đó thường lại chỉ là lời công bố về quan hệ pháp lý – một lời tuyên bố cứng rắn với kẻ đối thủ mà thôi. Tiếng hót càng liên tục hơn, càng hăng hái hơn khi ca sĩ biết rằng có một con chim trống khác đồng loại đang nghe, và hẳn là khi có kẻ vi phạm đường biên giới vô hình của vùng đất đã được xác định, hắn sẽ bị đánh đuổi, nhưng thường là chỉ nghe tiếng hót hăng hái thôi cũng đủ khiến hắn phải lảng ra xa rồi.

Tiếng hót vào đầu mùa xuân có lẽ là tiếng hót mạnh mẽ nhất, dứt khoát nhất, dai dẳng nhất và cũng là lời tuyên bố đanh thép nhất. Ngay một tiêu bản của chim trống nhồi, dù vụng về đến mấy mà đặt vào trong vùng lãnh thổ của một con chim đang hót đó, nó cũng xông vào đánh, đặc biệt là khi có máy ghi âm phát thêm tiếng để gợi sự chú ý nữa. Nhưng một con chim cổ đỏ sẽ không công kích một con sẻ nhồi, hoặc một con sáo. Nó chỉ phản công đối với chim cổ đỏ mà thôi. Davít Lac ở trường Đại học Oxfo khi thí nghiệm với con chim cổ đỏ nước Anh, ông đã phát hiện ra rằng cái mà làm cho con cổ đỏ nổi xung lên chính là cái ngực đỏ của đối thủ. Ngay chỉ một chùm lông ngực đỏ quấn vào dây thép cũng bị tấn công dữ dội. Thậm chí khi cái đó đã được cất đi, con chim vẫn hăng hái xông vào đánh chỗ đặt chùm lông. Nói chung những kiểu dựng lông cổ lên, những màu sắc rực rỡ của bộ lông, hay là mọi thứ trang hoàng khác chỉ xuất hiện vào mùa sinh sản đều là có ý nghĩa khiêu khích hay hăm dọa đối với con trống khác, đồng thời lại là cái để chinh phục các con chim mái. Sự tấn công và đánh trả đã làm cho tiếng hót của chim phát triển đến mức cao độ và nếu như không có những sự kiện này thì cuộc sống của con chim hẳn là mất đi nhiều vẻ quyến rũ của nó.

Nếu như một con chim trống nhồi đã có thể kích nên một trận đánh nhau ác liệt thì không có gì lạ là một con chim mái nhồi lại gây nên một phản ứng ngược lại. Cũng tiếng hót đó nhưng bây giờ nó có vẻ êm dịu hơn, thánh thót hơn. Dầu cho con chim nhồi có tỏ vẻ lãnh đạm, thì cũng không hề gì. Chừng nào nó còn tỏ ra là một con chim mái của loài đó, thì nó vẫn còn vẻ hấp dẫn và con chim trống nồng nhiệt bị lừa kia vẫn cứ hót và quay đi quay lại xung quanh cái tiêu bản nhồi ngay cả khi nó đã bị vặt cả đầu lẫn cánh.

Uynliam Vốt trong khi nghiên cứu về con sẻ bụng vàng trống, đã làm thay đổi màu sắc của một con mái nhồi bằng cách dán một dải băng đen qua mặt nó (con trống của loài này có dải đen đó, con mái không có). Khi con trống quay trở lại, theo nhận xét của Vốt thì phản ứng đầu tiên của nó là sững sờ vì ngạc nhiên, “dường như chim mái đã phản bội”, sau đó nó xông vào đánh kẻ lừa gạt.

Chim mái cũng có tiếng nói riêng của nó để tỏ tình. Khi một con chim mái bị hấp dẫn bởi tiếng hót của chim trống mà đến gần thì đầu tiên, con chim trống còn hăm dọa nó. Nhưng nó đã biết làm nguôi cơn giận của chim trống bằng một dấu hiệu xoa dịu, một cử chỉ tế nhị, một tiếng kêu dịu dàng mà chỉ đồng loại mới thông cảm được như cái vẩy đầu duyên dáng mà điển hình của con mòng biển đầu đen, hay nhịp vỗ cánh kiểu đòi ăn của chim non với tiếng kêu chíp chíp để biểu thị sự quy phục của nhiều loài chim cỡ nhỏ. Đó là một kiểu nói chuyện có tính chất “làm nũng”, “trẻ con” của loài chim nhưng lại dẫn đến sự kết đôi trong mùa sinh sản.

Tiếng hót của các loài chim thường được bắt đầu từ lúc sáng sớm. Nó cất lên hăng hái rộn ràng nhất vào lúc Mặt trời vừa mọc, giảm dần cho đến lúc gần trưa để rồi lại tiếp tục mạnh lên vào khoảng xế chiều. Tiếng hót của nhiều loài chim, hình như không biết mệt mỏi, nó vang lên từ lúc mới rạng đông và kéo dài không dứt cho đến tận chiều tối như tiếng của nhiều loài chim sống trong các khu rừng rụng lá bao la vào mùa khô ở miền Tây nam nước ta hay tiếng của chèo chẹo, tu hú, cu rốc có ở nhiều vùng. Cũng có một số loài chim mà tiếng “hót” của chúng kéo dài cả suốt đêm khuya như cuốc và tìm vịt. Đó là những tiếng hót đầu mùa sinh đẻ của các loài chim, lúc mà ranh giới vùng làm tổ còn có chỗ tranh chấp và cũng là lúc mà nhiều chim trống chưa tìm được bạn lứa đôi. Nhưng rồi ít lâu sau, tiếng hót của chim có phần thưa bớt, nhưng lại giàu tính chất tình cảm. Nó mang nhiều ý nghĩa khẳng định lòng trung thành giữa đôi bạn trong mùa sinh đẻ hơn là để xác định vùng đất, vùng trời.

Dường như trong thế giới các loài chim có một quy luật bù trừ là những loài có màu sắc giản dị lại là những ca sĩ tài ba. Về điều đó. chúng ta có thể nghĩ rằng những loài chim có bộ lông rực rỡ thì ngôn ngữ để tỏ tình cảm của chúng chính là màu sắc, là dáng điệu như các loài chim thiên đường, công, trĩ. Còn những loài chim có màu nâu xám của đồng ruộng như sơn ca, chiến chiện chúng không có bộ cánh bảnh bao và không có vẻ đẹp bề ngoài hấp dẫn, màu lông của chúng mộc mạc như hòn đất, củ khoai thì thiên nhiên đã phú cho chúng giọng hót mê ly. Chúng bay bổng lên cao và ngự trị cả một vùng rộng lớn bằng giọng hót véo von không dứt của chúng.

Trước khi có máy ghi âm hiện đại, Arêtas Xaođơ, nhà phân tích tài ba về tiếng hót của chim đã sáng tạo ra một hệ thống ký hiệu để ghi lại và diễn đạt bằng hình tiếng hót của chim. Dựa vào đôi tai phi thường của mình và hệ thống ký hiệu, ông đã phát hiện ra rằng trong nhiều loài chim không bao giờ có 2 tiếng hót của 2 cá thể hoàn toàn giống nhau. Qua nhiều năm nghiên cứu ông đã ghi lại được 884 dạng tiếng hót khác nhau của chim sẻ lưng vàng ở Bắc Mỹ. Ít năm sau, Bôro tiếp tục nghiên cứu sâu hơn với chiếc máy ghi âm. Ông tập trung nghiên cứu tiếng hót của chim sẻ lưng vàng ở đảo Hốt. Ông đã ghi được 462 lần tiếng hót của nó và khi phân tích thì thấy rằng có 13 kiểu hoàn toàn khác biệt và 187 kiểu phụ. Tuy thế nhưng tính chất cơ bản thì vẫn như nhau và qua mỗi điệu đều có thể nhận biết ngay là tiếng hót của sẻ lưng vàng.

Rõ ràng là những nét khác biệt trong tiếng hót của các cá thể mà tai chúng ta không nhận biết được đã giúp cho chim nhận ra hàng xóm của mình và phát hiện ra kẻ lạ mặt.

Máy ghi âm đã góp phần quan trọng vào việc nghiên cứu tiếng hót của chim. Nhờ có máy mà người ta đã ghi được nhiều thứ tiếng hót khác nhau của chim. Máy ghi âm còn dùng để phân tích tiếng chim, bằng cách cho máy chạy chậm lại lúc phát tiếng ra hay cho băng ghi âm qua giao động ký. Nhờ cách phân tích như vậy mà người ta đã phát hiện được nhiều điều lý thú trong tiếng hót của chim và một khoa học mới đã ra đời: khoa âm sinh học.

Âm thanh của chim phát ra không phải chỉ có tiếng hót mà còn có nhiều thứ tiếng kêu khác (như ta thường hay gọi) do chim phát ra trong những hoàn cảnh khác nhau. Ta có thể chia âm thanh của chim ra làm 5 loại chính với ý nghĩa: 1) hoạt động tập hợp thành bầy, 2) báo có thức ăn, 3) báo có kẻ thù, 4) thể hiện tình cảm mẹ con và 5) biểu thị tình yêu và xung đột. Tiếng hót của chim dĩ nhiên là nặng về ý nghĩa cuối cùng này. Ngoài ra trong khi bay di cư nhất là về đêm chim thường phát ra một thứ tiếng ngắn gọn, mà không nghe vào những lúc nào khác. Tất nhiên những âm thanh này chỉ có ý nghĩa là để thông tin với nhau về đường bay, lúc không trông thấy nhau vì cách xa nhau hay vì tối trời.

Khi quan sát chim hoạt động trong thiên nhiên chúng ta có thể nhận thấy được một cách dễ dàng ý nghĩa của những âm thanh mà chúng phát ra từng lúc. Trên bãi phù sa ở cửa sông Hồng nơi một bầy ngỗng trời về đây trú đông đang kiếm mồi, chúng chuyện trò rầm rì nho nhỏ, nhưng bỗng một tiếng rống to báo hiệu, tất cả vội vàng cất cánh và khi cả đàn chim đã bốc lên cao, dàn thành hình mũi tên dài, bay về phía chân trời thì cả đàn lại cất lên một điệu hợp xướng sôi nổi. Hẳn là mỗi thứ âm thanh mà đàn ngỗng phát ra đều mang ý nghĩa riêng của nó.

Tiếng kêu báo động cũng là một thứ tiếng phổ biến của các loài chim, và tùy theo mức độ nguy hiểm mà tiếng kêu đó có khác nhau. Một con gà mái khi nhận thấy có bóng dáng diều hâu, nó liền phát ra một thứ tiếng chói tai khiến cho đàn gà con tản ngay vào chỗ ẩn nấp, nằm im thin thít, còn khi có con chó hay người lạ đến gần thì tiếng báo động chỉ là tiếng cục tác và đàn gà con cũng chỉ chạy xúm lại gần mẹ mà không tìm chỗ ẩn nấp như khi có diều hâu.

Có thể nói rằng mọi âm thanh mà chim phát ra đều mang một ý nghĩa riêng, nó là một thứ “lời nói”, một thứ “ngôn ngữ” để thông báo cho đồng loại biết một tin tức nhất định nào đó. Thậm chí các loài chim khác nhau cùng chung sống với nhau ở một môi trường như trong một cánh rừng, trên một vùng đồng lầy, không những hiểu được nhiều thứ tiếng kêu của các loại khác như tiếng kêu gọi đàn, tiếng kêu xuất phát, tiếng gọi tập hợp, tiếng gọi đến ăn, tiếng báo động…, giống như một người nói tiếng Việt mà đồng thời nhận ra ý nghĩa cơ bản của những câu nói bằng tiếng Nga, tiếng Anh, tiếng Pháp mà người ấy không biết.

Tác phẩm, tác giả, nguồn

Tác phẩm: Đời sống các loài chim

Tác giả: Võ Quý

Nhà xuất bản Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội – 1978

Đôi dòng về tác giả: GS. Võ Quý: Ông dành cả cuộc đời say sưa nghiên cứu các loài chim và có nhiều đóng góp lớn cho khoa học môi trường Việt Nam và thế giới. Ông là người Việt Nam đầu tiên ở Châu Á giành được giải thưởng Blue Planet Prize về môi trường.

“Like” us to know more!

Knowledge is power

Tuổi Thọ Của Các Loài Chim

10. Tuổi thọ của các loài chim

Việc tìm hiểu tuổi đời của các loài chim hoang dại, dù đã được chú ý nghiên cứu hơn nửa thế kỷ qua, nhưng cho đến nay người ta cũng chưa biết được gì nhiều lắm. Đây là một vấn đề khá phức tạp, vì chim sống tự do trong thiên nhiên, nay đây mai đó, biết chúng chết lúc nào mà theo dõi, ghi chép. Dùng phương pháp đeo vòng, người ta cũng đã biết được ít nhiều, nhưng lúc bắt lại được chim đeo vòng có phải đã là lúc chim già nhất chưa thì cũng còn phải bàn cãi. Để biết được tuổi đời của các loại chim hoang dại một cách chính xác, phương pháp chắc chắn nhất vẫn là theo dõi chúng ở các vườn nuôi. Nhưng tiếc thay số loài chim hoang dại đã được nuôi từ trước đến nay không phải là nhiều, vả lại do điều kiện sinh sống của chúng trong vườn nuôi, không hoàn toàn giống với điều kiện thiên nhiên, nên tuổi thọ của các cá thể sống trong vườn nuôi cũng có phần sai khác với tuổi thọ của đồng loại của chúng sống trong thiên nhiên. Trong thiên nhiên có lẽ chim gặp nhiều khó khăn hơn ở vườn nuôi về điều kiện khí hậu, về thức ăn, kẻ thù và bệnh tật v.v…, và cũng vì vậy mà tuổi thọ của chim nuôi có lẽ dài hơn so với chim sống trong thiên nhiên. Nói chung, chim có kích thước lớn thường sống lâu hơn chim có kích thước bé, nhưng cũng không phải chim lớn nhất đã có tuổi thọ cao nhất. Đà điểu châu Phi, loài chim hiện đại có cỡ lớn nhất nhưng chỉ sống được khoảng 30 – 40 năm, trong lúc đó dù dì, nhỏ hơn đà điểu nhiều mà thọ đến 68 tuổi.

Căn cứ vào những kết quả nghiên cứu mấy lâu nay thì tuổi thọ trung bình của các loài chim cùng một nhóm phân loại, không khác nhau nhiều lắm. Tuổi thọ trung bình của chim thuộc bộ Sẻ và bộ Vẹt là 20 năm, của Cú 15 năm, của chim cắt 21 – 24 năm, vịt, ngỗng 20 năm, rẽ giun 10 năm, mòng biển 17 năm, bồ câu 12 năm và gà 13 năm. Đây tuổi thọ của gà rừng, còn gà nhà thì có thể sống 24 – 25 năm và thậm chí có con sống được 30 năm.

Tuổi thọ của một số loài cụ thể được xem như cao nhất đối với loài đó có thể kể như sau. Trong bộ Sẻ thì quạ sống được lâu nhất, có một con đã sống đến tuổi 60 và một con khác đến tuổi 69. Các loài chim sẻ bé có tuổi thọ thấp hơn: chim chích đầu đen 24 năm, hoét 20 năm, sơn ca 20 năm. Trong bộ Cú thì dù dì sống lâu nhất 34, 53 và 68 năm. Trong bộ Vẹt, có vẹt mào châu Úc sống đến 56 năm, và vẹt đỏ Bắc Mỹ 64 năm. Về nhóm chim ăn thịt ban ngày đã có những số liệu như sau: diều hâu châu Phi sống được 55 năm, kền kền Nam Mỹ 52 và 65 năm, đại bàng đầu trọc 38 năm. Trong bộ Ngỗng, ta biết được tuổi thọ của vịt Canada là 33 năm và thiên nga nhỏ 24 năm rưỡi. Trong nhóm sếu có sếu châu Úc sống được 47 năm, sếu xám 43 năm, sếu cổ trụi 42 năm. Bồ nông hồng sống được đến 51 năm và một số loài bồ câu sống đến 30 năm.

Bằng phương pháp đeo vòng người ta cũng đã thu được một số kết quả khả quan như đã bắt được rẽ lớn 9 tuổi, nhạn sống 16 tuổi, nhạn biển 20 tuổi rưỡi, nhạn Bắc cực 14 tuổi, chim cánh cụt trán trắng 22 tuổi, diệc 20 tuổi, cò 11 tuổi, diều mướp 13 tuổi, quạ xám 14 tuổi, sáo 12 tuổi, yến đen 9 tuổi, sẻ nhà 11 tuổi rưỡi, đớp ruồi xám 12 tuổi rưỡi, và nhạn 9 tuổi. Nhóm vịt tuy bị săn bắt rất nhiều nhưng người ta cũng đã bắt được những con sống đến 18 – 20 năm.

Trong thiên nhiên hầu hết các loài chim đều có tỷ lệ tử vong khá cao nhất là vào tuổi chưa trưởng thành, lúc chim chưa đầy một năm tuổi. Hiện tượng này đã ảnh hưởng rõ ràng đến tuổi thọ của chim và việc chim kéo dài được tuổi đời của chúng đến mức tối đa trong thiên nhiên là điều hiếm có. Ở các loài chim thuộc bộ Sẻ, tỷ lệ tử vong vượt quá 50%, như loài đớp ruồi lưng đen chỉ trong năm đầu đã chết 60%, đớp ruồi trán trắng đến 79%. Ở Cộng hòa dân chủ Đức người ta đã đeo vòng cho 77 chim nhạn non, trong năm thứ nhất đã có 51 con bị chết, năm thứ hai 17 con, năm thứ ba 6 con, năm thứ tư 2 con và chỉ còn 1 con sống sót đến năm thứ năm.

Khí hậu khắc nghiệt, nhất là lạnh, cũng đã làm chết khá nhiều chim. Ví dụ, loài chim cánh cụt chúa ở vùng Nam cực là loài chim chịu lạnh giỏi nhất, thế mà có đến 77% chim non bị tử vong vì lạnh. Đối với loài mòng biển, chỉ trong năm đầu đã có đến 0,5% chim non chết, nhưng tỷ lệ tử vong của chim non trong năm đầu chỉ chiếm 17,2% toàn đàn. Vì vậy mà (nếu không kể chim non) thì phần lớn thành viên của đàn chim có tuổi đời từ 3 đến 5 năm.

Đối với các loài chim ở nước, nhất là những loài sống tập đoàn thì tuổi thọ trung bình cao hơn ở chim sẻ và dĩ nhiên tỷ lệ tử vong của chim trưởng thành cũng thấp hơn.

Tác phẩm, tác giả, nguồn

Tác phẩm: Đời sống các loài chim

Tác giả: Võ Quý

Nhà xuất bản Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội – 1978

Đôi dòng về tác giả: GS. Võ Quý: Ông dành cả cuộc đời say sưa nghiên cứu các loài chim và có nhiều đóng góp lớn cho khoa học môi trường Việt Nam và thế giới. Ông là người Việt Nam đầu tiên ở Châu Á giành được giải thưởng Blue Planet Prize về môi trường.

Tìm Hiểu Về Loài Chim Chào Mào Và Các Loài Chim Cùng Họ

Chào mào là chim Châu Á, từ Ấn độ với phía Nam Trung Quốc và kéo dài xuống phía Đông Nam á xuống Singapore-Indonsesia. Sau này được nhập vào Australia và đã sinh sản một số chim CM tức là gốc Châu Á. Được nhập vào tiểu bang Haiwaii ở Mỹ và tiểu bang tôi ở bây giờ là Florida. Nghe nói hồi thập niên 60 có nhập từ Ấn độ qua vài cặp và qua cơn bão. Chúng đã thoát ra và đã sinh sản được cũng trên 100 con. Tôi có xuống nhưng chưa thấy ngoài hoang dã, có thể là do xuống buổi trưa nên chim không bay ra ngoài hót. Có thể mùa này sinh sản có thể tìm thấy, bởi đã có vài hình ảnh người Mỹ đi du lịch xem chim đã chụp thấy có. Về hình dáng thì: chim CM quanh thế giới đều có net như nhau to hoặc nhỏ, và giọng có thể khác nhau do vùng chim. Riêng Ấn Độ thì: chim có cách tách đỏ rất to và lại có loại CM không có chấm trắng nơi đuôi. Về ở VN ta thì theo nghiên cứu của Giá Sư Võ Quý thì, từ HN xuống đèo Hải Vân là một giống, có hình dáng to con. Từ đèo Hải Vân và đổi Cao Nguyên Trung Phần xuống mà Nam là một giống. Và có hình dáng thân hình nhỏ con hơn một tí. có tên tiếng Anh là Red-whiskered Bulbul, tên khoa học là (Pycnonotus jocosus) và là một thành viên trong bộ chim sẻ biết hót, được phân bố hầu hết khắp châu Á. Chúng chính là loài được giới thiệu ở các nước nhiệt đới châu Á và do đó, chúng có những khu vực dành riêng do chúng tạo lập. Chúng ăn trái cây và côn trùng nhỏ và dễ thấy trên các nhánh cây vì các “cuộc gọi của họ” từ 1 – 4 âm tiết. Chúng có một cái mào dễ nhận biết, hai má trắng và phía trên “mảng” trắng là màu đỏ do đó khiến chúng có tên tiếng Anh là râu đỏ (Red-whiskered). Tại Việt nam, tùy theo vùng miền mà chúng có tên gọi khác nhau: Hoành hoạch mồng, chóp mũ đỏ, đít đỏ … nhưng tên thông dụng nhất vẫn là

Chúng là một trong nhiều loại chim được mô tả đầu tiên bởi nhà động vật vật – thực vật học – bác sĩ người Thụy Điển Calorus Linnaeus vào năm 1758 trong một tập sách xuất bản viết về các công trình của ông có tên gọi là Systerma Naturae. Trong đó, ông đã đặt chúng cùng với họ bách thanh là “ Turaha pigli-Pitta bulbul Sipahi Kanera bulbu Phari Pettigrew-kick II. Sinh sản, hành vi sinh thái:

(sẽ có phần phụ lục giới thiệu về 5 loài chim trên trong họ hoành hoặch) Đây là loài chim lồng rất phổ biến tại các vùng Ấn Độ đã được ghi nhận trên tạp chí của Hiệp hội châu Á của Bengal. Chúng yêu cầu nuôi dạy sử dụng thế chiến trận/chiến thuật với dáng vẻ không hề sợ hãi. Chúng cũng được yêu cầu dạy dỗ cho đứng trên lòng bàn tay hoặc ngón tay. Và là loài đang phát triển mạnh mẽ trong thế giới chim lồng ở các vùng tiếp theo tại Đông Nam Á. – Phần gốc mũ ở đỉnh đầu rậm hay thưa (như cách gọi so sánh là mũ kim hay sừng mà chúng ta hay gọi).

Các phân loài có tên và vùng phân bố tập trung được liệt kê sau đây:

Pycnonotus jocosus jocosus (Linneaus, 1758) , được tìm thấy ở phía đông nam Trung Quốc – khu vực đông Quý Châu đến Quảng Tây, phía đông Quảng Đông và Hong Kong.

Pycnonotus jocosus pyrrhotis (Bonaparte, 1850) – Bắc Ấn Độ (từ phía đông Punjab đến Arunachal Pradesh) và Nepal. Có phần lưng nhạt màu, phần yếm hoàn chỉnh như phân loài Pycnonotus jocosus fuscicaudatus và phần lông đuôi có bông trắng rất rõ ràng.

Pycnonotus jocosus whistleri (Deignan, 1948) được tìm thấy trong các quần đảo Andaman, có một màu nâu ấm áp ở phần lưng, có mũ kim, yếm đen dày nhưng ngắn hơn nhiều so với phân loài Pycnonotus jocosus emeria.

Pycnonotus jocosus Pattani (Deignan, 1948) – phân bố ở phía cực nam của Myanmar, cực nam ở Tenasserim), Thái Lan, phía bắc bán đảo Malaysia, Lào và nam đông dương Đông Dương.

Pycnonotus jocosus peguensis được ghi nhận mô tả từ miền nam Miến Điện nhưng đến nay chưa được hiệp hội công nhận. Minh họa một số hình ảnh của từng phân loài

Masinagudi-Ooty Road, Khu Nilgiris, Tamil Nadu, Ấn Độ (ssp fuscicaudatus)

Chiang Mai, Chiang Mai, tỉnh Tây Bắc Thái Lan, Thái Lan (ssp

Qua đó, xác định giới tính con mái có những đặc điểm như:

Con mái: lông đỏ ngắn hơn con trống, chiều dài cánh ngắn hơn (kích thước do được là 78 – 85 mm), dáng nhỏ con.

Con trống: Chiều dài cánh dài hơn, kích thước từ 83 – 91, lông đỏ dài và dày hơn.

Sự khác biệt giữa hai giới tính ở chim (ảnh dưới) – con bên trái là con mái được so sánh cùng độ tuổi.

Đi sâu vào vấn đề của các loại quả chín, mọng nước và có sắc tố đỏ. Sắc tố đỏ được quyết định bởi chất vi lượng gọi là chất sắc (Fe) dưới dạng mà cơ cấu hấp thu của hệ thống tiêu hóa chim chào mào hấp thụ được. Hầu hết các hạt trong quả đỏ ấy đều có thành phần các hợp chất “nhầy nhầy” được bao bọc xung quanh hạt. Chính các lớp “nhầy nhầy” là thành phần đáng kể nhất, cung cấp đa vi lượng chất Fe nhiều nhất cho sự hoạt động tái tạo chất đỏ trên cơ thể chim chào mào. Đó là một cách sống chung để cùng phát triển: Cộng sinh!

Họ Chào mào (danh pháp khoa học: Pycnonotidae) là một họ chứa các loài chim biết hót kích thước trung bình thuộc bộ Sẻ, sinh sống tại châu Phi và nhiệt đới châu Á. Họ này chứa khoảng 130 loài. Tên gọi phổ biến trong tiếng Việt là chào mào, bông lau, hoành hoạch và cành cạch, trong đó tên gọi cành cạch được dùng cho các loài chim trong chi Criniger và Hypsipetes theo phân loại của Howard-Moore còn tên gọi chào mào là tên gọi dân dã cho ‘chào mào ria đỏ’ (Pycnonotus jocosus). Tên gọi này cũng áp dụng cho chi Spizixos và một vài loài khác trong chi Pycnonotus. Bông lau được sử dụng cho phần lớn các thành viên của chi Pycnonotus (ngoại trừ những loài nào gọi là chào mào). Tuy nhiên do không phải loài nào cũng có mặt tại Việt Nam nên trong bài gọi chung là chào mào khi có thể.

Chào mào má trắng, Pycnonotus leucogenys

Cành cạch tai nâu, Microscelis amaurotis (đôi khi gộp trong chi Ixos)

Chi Ixos (cận ngành) Gần với Hemixos

Cành cạch xám hay chào mào xám tro, Hemixos flavala

Cành cạch mỏ móc, Setornis criniger

Cành cạch ô liu, Iole virescens

Họ Chào mào (danh pháp khoa học: Pycnonotidae) là một họ chứa các loài chim biết hót kích thước trung bình thuộc bộ Sẻ, sinh sống tại châu Phi và nhiệt đới châu Á. Họ này chứa khoảng 130 loài.

Chào mào mỏ lớn, Spizixos canifrons

Tên gọi phổ biến trong tiếng Việt là chào mào, bông lau, hoành hoạch và cành cạch, trong đó tên gọi cành cạch được dùng cho các loài chim trong chi Alophoixus, Hemixos, Hypsipetes, Iole và Ixos còn tên gọi chào mào là tên gọi dân dã cho ‘chào mào ria đỏ’ (Pycnonotus jocosus). Tên gọi này cũng áp dụng cho chi Spizixos và một vài loài khác trong chi Pycnonotus. Bông lau được sử dụng cho phần lớn các thành viên của chi Pycnonotus (ngoại trừ những loài nào gọi là chào mào). Tuy nhiên do không phải loài nào cũng có mặt tại Việt Nam nên trong bài gọi chung là chào mào khi có thể.

Các loài chim này chủ yếu là chim ăn quả. Một số có màu sặc sỡ với huyệt, má, họng, lông mày có màu vàng, đỏ hay da cam, nhưng phần lớn có bộ lông buồn tẻ với màu chủ đạo là đen hay nâu ô liu đồng nhất. Một số loài có mào rất đặc biệt.

Nhiều loài sinh sống trên phần ngọn của cây cối trong khi một số loài chỉ sống ở các tầng cây thấp. Chúng đẻ tới 5 trứng có màu hồng tía trong các tổ trên cây và chim mái ấp trứng.

Chào mào (Pycnonotus jocosus) sinh sống rộng rãi trong vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới, chẳng hạn ở miền nam Florida, Hoa Kỳ.

Các sắp đặt truyền thống chia các loài chào mào thành 4 nhóm, gọi là các nhóm Pycnonotus, Phyllastrephus, Criniger và Chlorocichla theo các chi đặc trưng này. Tuy nhiên, các phân tích gần đây chứng minh rằng kiểu sắp xếp này có lẽ đã dựa trên diễn giải sai lầm các đặc trưng:

Greenbul vàng kim, Calyptocichla serina

Chào mào thuộc về nhóm Pycnonotus châu Á.

Chi Pycnonotus (cận ngành)

Chào mào vàng đầu đen, Pycnonotus atriceps

Bông lau họng vạch hay chào mào họng sọc, Pycnonotus finlaysoni

Chào mào ria đỏ hay chào mào, Pycnonotus jocosus

Bông lau ngực nâu hay chào mào ngực nâu, Pycnonotus xanthorrhous

Chào mào lưng bồng, Pycnonotus eutilotus

Chào mào đen trắng, Pycnonotus melanoleucus

Chào mào vàng mào đen, Pycnonotus melanicterus

Cành cạch Philippine, Hypsipetes philippinus – trước đây trong chi Ixos

Chào mào bụng xám, Pycnonotus cyaniventris

Bông lau nâu nhỏ hay chào mào bốn mắt, Pycnonotus erythropthalmos

Chào mào đầu vàng rơm, Pycnonotus zeylanicus

Chào mào mắt đỏ, Pycnonotus brunneus

Chào mào cánh ô liu, Pycnonotus plumosus

Bông lau mày trắng hay chào mào huyệt vàng, Pycnonotus goiavier

Chào mào ngực đen, Pycnonotus nigricans

Chào mào má trắng, Pycnonotus leucogenys

Chào mào thường, Pycnonotus barbatus

Chào mào vạch hay chào mào vằn, Pycnonotus striatus

Chào mào sọc kem, Pycnonotus leucogrammicus

Chào mào cổ đốm, Pycnonotus tympanistrigus

Chào mào đầu xám, Pycnonotus priocephalus

Chào mào Styan, Pycnonotus taivanus

Chào mào ngực vảy, Pycnonotus squamatus

Bông lau Trung Quốc hay chào mào huyệt sáng, Pycnonotus sinensis

Chào mào Cape, Pycnonotus capensis (loài điển hình)

Chào mào kính trắng, Pycnonotus xanthopygos

Chào mào tai trắng, Pycnonotus leucotis

Bông lau đít đỏ hay chào mào huyệt đỏ, Pycnonotus cafer

Bông lau tai trắng hay chào mào đầu than hoặc bông lau đít đỏ, Pycnonotus aurigaster

Chào mào yếm lam, Pycnonotus nieuwenhuisii (tranh cãi)

Chào mào yếm vàng, Pycnonotus urostictus

Chào mào đốm cam, Pycnonotus bimaculatus

Chào mào họng vàng, Pycnonotus xantholaemus

Chào mào tai vàng, Pycnonotus penicillatus

Bông lau vàng hay chào mào Flavescent, Pycnonotus flavescens

Chào mào trán trắng, Pycnonotus luteolus

Bông lau tai vằn hay chào mào tai sọc, Pycnonotus blanfordi

Chào mào huyệt kem, Pycnonotus simplex

Chào mào khoang cổ, Spizixos semitorques

Chào mào mỏ lớn, Spizixos canifrons

Chào mào khoang cổ, Spizixos semitorques

Cành cạch lưng rậm lông, Tricholestes criniger

Cành cạch mỏ móc, Setornis criniger

Chi Alophoixus – trước đây gộp trong chi Criniger, có thể là đa ngành

Cành cạch Finsch, Alophoixus finschii

Cành cạch họng trắng, Alophoixus flaveolus

Cành cạch lớn hay cành cạch họng bồng, Alophoixus pallidus

Cành cạch bụng hung hay cành cạch đất son, Alophoixus ochraceus

Cành cạch má xám, Alophoixus bres

Cành cạch bụng vàng, Alophoixus phaeocephalus

Cành cạch vàng kim, Alophoixus affinis

Cành cạch ô liu, Iole virescens

Cành cạch nhỏ hay chào mào mắt xám, Iole propinqua

Cành cạch huyệt vàng da bò, Iole olivacea

Cành cạch trán vàng, Iole indica

Cành cạch xám hay chào mào xám tro, Hemixos flavala

Cành cạch hung hay chào mào nâu dẻ, Hemixos castanonotus

Cành cạch Mã Lai hay chào mào sọc, Ixos malaccensis

Cành cạch bụng vàng, Ixos palawanensis – Hypsipetes?

Cành cạch ngực sọc, Ixos siquijorensis – Hypsipetes?

Cành cạch vàng nhạt, Ixos everetti

Cành cạch Zamboanga, Ixos rufigularis

Cành cạch núi hay chào mào núi, Ixos mcclellandii

Cành cạch Sunda, Ixos virescens

Cành cạch tai nâu, Microscelis amaurotis (đôi khi gộp trong chi Ixos)

Cành cạch Philippine, Hypsipetes philippinus – trước đây trong chi Ixos

Cành cạch Madagascar, Hypsipetes madagascariensis

Cành cạch đen hay chào mào đen, Hypsipetes leucocephalus

Cành cạch Seychelles, Hypsipetes crassirostris

Cành cạch thông thường, Hypsipetes parvirostris

Cành cạch Reunion, Hypsipetes borbonicus

Cành cạch Mauritius, Hypsipetes olivaceus

Cành cạch Nicobar, Hypsipetes virescens

Cành cạch đầu trắng, Hypsipetes thompsoni

Greenbul điển hình và đồng minh

Chi Phyllastrephus (19 loài)

Chi Andropadus (12 loài; có thể đa ngành)

Chi Thescelocichla – Greenbul đầm lầy

Chi Chlorocichla (6 loài)

Chi Ixonotus – Greenbul đốm (đặt vào đây không chắc chắn)

Chi Bleda – chim mỏ cứng (3 loài)

Chào mào vòng cổ đen, Neolestes torquatus

Nó có thể là đồng minh của chi Calyptocichla hay không phải là chào mào thật sự.

Tách ra gần đây từ Pycnonotidae

Greenbul mỏ dài ở Madagascar hiện nay được coi là thuộc về nhóm chích Malagasy.

Hiện nay trong chích Malagasy

Chi Bernieria – trước đây trong chi Phyllastrephus

Greenbul mỏ dài, Bernieria madagascariensis

Chi Xanthomixis – trước đây trong chi Phyllastrephus; có thể đa ngành

Greenbul khoang mắt, Xanthomixis zosterops

Tetraka Appert, Xanthomixis apperti

Greenbul tối màu, Xanthomixis tenebrosus

Greenbul đầu xám, Xanthomixis cinereiceps

Nicator đốm vàng, Nicator chloris

Nicator miền đông, Nicator gularis

Chào mào thuộc về nhóm Pycnonotus châu Á.

Bông lau họng vạch hay chào mào họng sọc, Pycnonotus finlaysoni

Bông lau ngực nâu hay chào mào ngực nâu, Pycnonotus xanthorrhous

Chào mào lưng bồng, Pycnonotus eutilotus

Những Thuật Ngữ Thường Dùng Của Anh Em Chơi Chào Mào

Để người mới có thể hiểu được các từ ngữ hay thuật ngữ thường dùng của anh em chơi chào mào, giúp cho người mới bắt đầu chơi chim chào mào đọc các bài viết dễ hiểu hơn. Biết chim bổi là gì, chim má trắng, chim bạch tạng…Những thuật ngữ thường dùng của anh em chơi chào mào :

Chào mào má trắng, chim chuyền: Là chào mào con mới ra tổ, đã đủ lông và cánh để tự bay đi kiếm ăn, chim này chưa ra tách ( má ) đỏ, chỉ có màu trắng.

Chào mào má đỏ : Chào mào đã ra tách đỏ, từ này thì dùng chung nhiều, cứ con nào có tách đỏ thì gọi là má đỏ.

Chào mào má lỡ : Đây là chào mào má trắng vừa mới lên tách đỏ, những con này còn non gần được một mùa ngoài thiên nhiên. Nên người ta thường nói cần bán chào mào má lỡ là như vậy đó. Để nói chú chim mới bẫy được đang trong giai đoạn từ má trắng ra má đỏ.

Chào mào bổi, chào mào mộc : Từ này dùng chung để nói chào mào đã ra đầy đủ lông, tách đỏ và sống ngoài thiên nhiên trên một mùa. Người ta thường dùng từ này để phân biệt với chào mào con, chào mào má trắng, chào mào má lở.

Chào mào bổi già : Dùng để chỉ những chú chào mào sống ngoài thiên nhiên từ 3 mùa trở lên.

Chào mào bẫy đấu : Thường các trang mua bán người ta hay nói, cần bán chào mào bẫy đấu, gốc…Là dùng để nói chú chim này được bẫy đấu bằng cách dùng chim mồi chứ không phải bẫy lưới, bẫy keo, bẫy điện.

Chào mào thuần, chào mào thuộc : Để nói những chú chim bổi đã được con người thuần hóa. Gặp người ít bay nhảy hơn.

Chào mào hót chuyện : Là chào mào hót giọng nhỏ trong miệng, cứ líu ríu không phát ra tiếng to, luyến láy trong cổ họng. Thường những chú chim con học được giong thường tập hót chuyện trước rồi mới hót thật sự.

Chào mào căng lửa : Để nói đến chú chào mào đang trong thời kỳ sung mãn nhất, hót thường xuyên, gặp chim khác là hót đấu.

Chào mào ché, chét: Lúc chim sung mãn dẫn thường phát ra tiếng này để nạt nộ, thị uy những con khác. Đây không phải là hót. Ví dụ chim đang đấu, hót tự nhiên trong miệng phát ra âm ché…ché….ché…ché…Tùy con mà giọng ché dài hay ngắn.

Chào mào mí đỏ, mí lửa : Chào mào phía trên mắt bình thường có màu đen, chào mào mí đỏ thì phía trên mắt có màu đỏ.

Chào mào bông, chào mào mơ : Có nhiều loại, chim có lông trắng mọc khắp trên người, có con thì mọc trên đầu, có con mọc trên lưng, trên cổ, có con thì mọc khắp nơi trên cơ thể. Chào mào bông có loại mỏ hồng, chân hồng, mắt hồng. Cũng có con mỏ hồng, chân đen, mắt đen và ngược lại. Và đây là loại chim quý hiếm được săn tìm rất nhiều có giá từ 5 triệu đến 200 triệu.

Chào mào bạch tạng : Đây là loại chim đột biến gien, có lông trên người trắng hết, và thường có mỏ hồng, chân hồng, mắt hồng, mí lửa. Giá của em nó cũng khoảng 100 đến 300 triệu.

Chào mào ngũ đoản, chào mào ngũ trường : Chào mào ngũ đoản gồm có 5 đoạn ngắn : mào ngắn, mỏ ngắn, chân ngắn, mình ngắn, đuôi ngắn. Còn chào mào ngũ trường thì ngược lại là 5 đoạn đều dài. Đây cũng là loại chim hiếm trong tự nhiên.

Chào mào An Lão, chào mào Sông Kôn, chào mào Cam Ly, chào mào A Lưới : Đây là thuật ngữ dùng để chỉ xuất xứ vùng miền của chú chim. Như chào mào An Lão thuộc huyện An Lão tỉnh Bình Định, hay chào mào A Lưới thuộc huyện A Lưới của Huế.

Chào mào vảy cá : Dùng để chỉ những chú chào mào có lông mình giống như vảy của con cá.

Chào mào cánh gián : Hay còn gọi là chào mào cánh trắng. Đây là loại chào mào có 1, 2 sợi lông cánh trắng hai bên cánh.

Chào mào đi thi : Người ta bán chim thường mô tả chú chim của mình chơi giàn, chơi cội 2 tiếng trở lên. Những từ này dùng để nói những chú chim mang đi chơi với các con khác ở cội chim, địa điểm dợt chim thường chơi từ 2h trở lên không nghỉ.

Chào mào Ốc tiêu, quạt ba tiêu, chào mào hôi nách, chào mào babi lắc : Đây là những từ mà chủ nhân của chú chim đặt cho. Kiểu như chào mào hôi nách là nó chơi cứ giang cánh hoài không chịu khép lại ( gọi là hôi nách).

Chào mào đuôi tôm, chào mào xòe cánh bướm : Có lẽ các bạn cũng dễ hình dung ra chào mào đuôi tôm tức là nó cụp lại giống như đuôi con tôm, chào mào xòe cánh bướm là lúc xòe cánh ra giống như con bướm. Chào mào chơi cánh, sàn đấu để nói chim chơi siêng dùng cánh và sàn cầu, chạy cầu.

Chào mào xổ bọng, đổ bọng, sổ bọng : Để nói lúc chào mào hót ra giọng từ 4 – 7 âm như wiu wu wiu quýt wìu, hay là giọng khác, nói chung là xổ bọng.

Chào mào lộn mèo, lộn cầu, ngoái, bu lông : Để nói các tật của chào mào, chào mào lộn mèo là chim nhảy từ cầu dưới lên chưa tới nóc lồng rồi lộn 1 vòng xuống cầu lại ( kiểu như chim sơn ca ), chim bu lồng, ngoái lộn có lẽ các bạn đã biết chim chơi hay bu lồng, ngoái cổ.

Ngoài ra còn có chào mào múa, chào mào bơi để nói lúc chào mào múa cánh để gọi mái. Chào mào hót giọng người để chỉ những chú chim học theo tiếng huýt sáo của con người như huýt hù hiu…

Đó là thuật ngữ thường dùng của anh em chơi chim chào mào, và cũng còn nhiều thuật ngữ khác do người chơi đặt ra, hi vọng sẽ giúp các bạn hiểu thêm chút ít về thú chơi này.

Cập nhật thông tin chi tiết về Ngôn Ngữ Của Các Loài Chim – Kipkis trên website Raffles.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!