Bạn đang xem bài viết Một Số Bệnh Ở Bồ Câu được cập nhật mới nhất trên website Raffles.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Bệnh đậu ở bồ câu:
Biểu hiện:
Bồ câu bị nổi mụn to bằng hạt đỗ ở chân và mỏ.
Cách chữa bệnh
– Vệ sinh chuồng nuôi sạch sẽ, tẩy uế chuồng nuôi bằng thuốc sát trùng – Đồng thời giữ chuồng nuôi sạch sẽ, ổ đẻ luôn phải khô ráo. – Dùng nước lá trầu không sắc đặc có pha muối rửa sạch các vùng da có mụn đậu. – Sau đó dùng IODINE 10% hoặc POVIDINE 10% bôi vào vùng da có mụn đậu ngày 2 lần. – Dùng GLUCO-KC + ADE-VITC + Men tiêu hóa và thuốc giải độc gan thận hòa với nước cho bồ câu uống hàng ngày – Dùng kháng sinh đề phòng vi khuẩn bội nhiễm: Amoxili hoặc Ampi-kana hoặc Doxycyclin hoặc Oxytetracyclin trộn vào khẩu phần ăn hàng ngày theo chỉ dẫn trên bao bì sản phẩm. Với phác đồ trên điều trị liên tục 5 – 7 ngày.
Bệnh Newcastle
Chim bồ câu có biểu hiện bị ho khẹc, khó thở, đi ngoài phân xanh, ăn kém.
Theo những biểu hiện trên thì chim đã bị bệnh niu cát xơn ghép viêm đường hô hấp mãn tính.
Cách chữa trị
– Cho bồ câu uống nước tỏi hàng ngày: 10 gam tỏi rã nhỏ với 1 lít nước sạch – Dùng kháng thể Gum tiêm cho bồ câu liên tục trong 3 ngày, liều lượng theo hướng dẫn trên bao bì sản phẩm. – Sau đó 1 ngày tiêm Vacxin Newcastle cho bồ câu với liều lượng gấp 2 lần so với liều tiêm phòng. – Dùng thuốc diệt vi khuẩn Thiamphenicol hoặc Doxycyclin, hoặc Florphenicol hoặc Biseptol hoặc Neoteson hoặc Enroflox 20% hoặc Oxytetracyclin liều lượng và cách dùng xem trên bao bì sản phẩm. Dùng liên tục từ 5- 7 ngày. – Dùng thuốc bồi bổ cơ thể: Gluco-KC + Men tiêu hóa + ADE-Vitc + B1 + thuốc bổ gan thận hòa với nước cho bồ câu uống hàng ngày. Dùng liên tục 10 ngày.
Bệnh Newcastle ở gà
Chăn nuôi gia cầm
Tin nông nghiệp
Nhận Biết Và Cách Chữa Trị Một Số Loại Bệnh Ở Gà
a) Đặc điểm bệnh
Bệnh phát ra quanh năm nhưng thường tập trung vào mùa khô từ tháng 10 đến tháng 4 năm sau. Bệnh xảy ra ở mọi lứa tuổi của gà, bệnh phát nhanh, lây lan rộng, tỷ lệ chết cao, điều trị tốn kém, không hiệu quả.
b) Triệu chứng bệnh
– Gà ủ rũ, xù lông, cánh xệ, không ăn hay chui đầu vào cánh, rút cổ nhắm mắt, đứng gật gù cho nên còn gọi là bệnh gà rù.
– Gà ăn không tiêu, diều căng đầy hơi, mũi miệng chảy đầy dịch nhờn keo, thở khò khè bại liệt.
– Phân loãng màu trắng xanh, mùi tanh gà kiệt sức dần rồi chết.
– Những con mắc bệnh kéo dài ở thể mãn tính, thì có triệu chứng thần kinh co giật, quẹo cổ, đi thục lùi hoặc đi bằng đầu gối, mổ không trúng thức ăn.Bệnh tích chủ yếu của bệnh này là xuất huyết ở dạ dày tuyến
c) Biện pháp phòng trị
– Gà 3 – 5 ngày tuổi dùng vaccin dịch tả hệ II (hệ F), lọ 100 liều pha với 10cc nước sinh lý mặn nhỏ mỗi con 2 giọt vào mắt hoặc mũi.
– Gà 20 – 25 ngày tuổi cho uống vaccin Lasota, lọ 100 liều pha với 100cc nước sinh lý mặn, mỗi con uống 1cc hoặc pha với 0,5 lít nước đun sôi để nguội cho gà uống tự do hoặc dùng vaccin chịu nhiệt cho uống, lọ 50 liều pha với 0,5 lít nước đun sôi để nguội cho gà uống tự do (nên cho gà nhịn khát từ 1 đến 2 giờ, sau đó pha vaccin cho gà uống, gà sẽ uống nhanh và đồng đều).
– Gà 2 tháng tuổi chích vaccin dịch tả hệ I (hệ M), lọ 100 liều pha với 100 ml nước sinh lý mặn, chích mỗi con 1 ml dưới da cổ hoặc ức hoặc dùng vaccin chịu nhiệt cho uống.
– Khi phát hiện trong đàn có gà nghi bệnh dịch tả, tách riêng những con bệnh ra xử lý không điều trị, số mạnh còn lại cho uống vaccin Lasota hoặc chịu nhiệt và tăng liều gấp đôi so với liều phòng, đồng thời cho uống thêm kháng sinh và vitamin để chống kế phát và tăng sức đề kháng cho cơ thể.
2. Bệnh Gumboro
a) Đặc điểm bệnh
– Bệnh thường xảy ra ở gà con từ 3 – 6 tuần tuổi.
– Bệnh phát ra đột ngột, lây lan nhanh tỉ lệ chết cao từ 20 – 30% (ngày thứ 3, 4 sau khi phát bệnh).
b) Triệu chứng bệnh
– Gà có hiện tượng bay nhảy lung tung, bứt rứt khó chịu, mổ cắn nhau vào khu vực hậu môn.
– Giảm ăn hoặc bỏ ăn, ủ rũ, xã cánh, diều căng đầy hơi, tiêu chảy phân loãng trắng.
– Mổ gà bệnh xẽ phát hiện ở vùng ngực, đùi có những vệt xuất huyết bầm đen, túi Fabricius sưng to, bên trong có dạng như múi khế chứa nhiều dịch nhầy hoặc xuất huyết đỏ.
c) Biện pháp phòng trị
– Định kỳ sát trùng chuồng và dụng cụ chăn nuôi bằng thuốc sát trùng: Biodin 0,33% hoặc Virkon 0.5%.
– Gà 1 – 3 ngày tuổi dùng vaccin Gumboro của xí nghiệp hoặc vaccin Bur 706 (nhập) nhỏ mắt mỗi con 2 giọt và lặp lại lần 2 lúc gà 15 – 18 ngày tuổi. Hoặc phòng theo lịch phòng tùy địa phương và hãng thuốc khuyến cáo.
– Cách ly ngay các con bệnh ra khỏi đàn.
– Hiện nay chưa có kháng sinh đặc trị bệnh này, chỉ dùng thuốc trợ sức và cầm máu để tăng cường khả năng kháng bệnh cho gà.+ Catosal hoặc Bcomplex 4 ml+ Vitamin B12 2 ống+ Vitamin K 2 ống+ Vitamin C 1000 mg 2 ống+ Kết hợp với nước sinh lý ngọt chích cho 20 kg gà/lần/ngày, chích liên tục 2 ngày.+ Sử dụng Anti – Gumboro, Vitamin C, đường Glucoza pha nước cho uống liên tục 4 – 5 ngày.
– Trường hợp có phụ nhiễm bệnh khác, thì dùng kháng sinh đặc trị bệnh đó, sử dụng liều thấp ban đầu rồi tăng dần lên.
3. Bệnh tụ huyết trùng
a) Đặc điểm bệnh
– Bệnh thường xảy ra ở gà giò và gà lớn và cũng phát triển mạnh vào những lúc giao mùa (từ mưa chuyển sang nắng hay ngược lại).
– Bệnh xảy ra đột ngột, lây lan nhanh và thường gây chết nhiều về đêm, có trường hợp gà đang ấp nằm chết trên ổ.
b) Triệu chứng bệnh
– Gà ủ rũ, kém hoặc bỏ ăn, mồng tím tái, miệng chảy nhiều dịch nhờn, thức ăn không tiêu, tiêu chảy phân trắng đôi khi có lẫn máu, thở khò khè, bại liệt rồi chết.
– Bệnh kéo dài, mào và yếm sưng, gà tiêu chảy, sưng khớp.
– Mổ gà thấy: tích nước màng bao tim, xuất huyết mỡ vành tim, bao tim; gan sưng, có những nốt hoại tử màu trắng như hạt phấn.
c) Biện pháp phòng trị
– Gà mới mua về hoặc lúc thời tiết thay đổi, lúc chuyển chuồng nên trộn kháng sinh như Tetra-Mutin hay Neotesol… và vitamin C cho gà uống liên tục 3 – 5 ngày.
– Phòng bệnh bằng vaccin Tụ huyết trùng cho gà lúc 30 – 40 ngày tuổi, mỗi con 0,5cc. Chích lặp lại khi gà 2 tháng tuổi mỗi con 1 ml.
– Nuôi gà đẻ: trước khi đẻ và sau 4 tháng chích lặp lại 1 lần, 1ml/con, chích dưới da cổ.
– Sử dụng một trong các loại kháng sinh sau đây:+ Kanamycin 1g/15 kg thể trọng, ngày chích 1 lần.+ Enrofloxacin (5%) 1cc/5 kg thể trọng, ngày chích 1 lần.+ Septotrim (24%) 1cc/3 kg thể trọng, ngày chích 1 lần.+ Kết hợp Dexamethasone với Analgin, chích liên tục 2 ngày và cho uống kháng sinh như phần phòng bệnh trên với liều gấp đôi, liên tục 3 – 5 ngày.+ Quét dọn chuồng trại sạch sẽ và sát trùng bằng Virkon 0.5% hoặc Biodin 0.33%.
4. Bệnh cúm gia cầm (H5N1)
a) Đặc điểm bệnh
– Là một bệnh cấp tính do virus gây nên có biểu hiện chủ yếu ở đường hô hấp của động vật với các triệu chứng như sốt cao, ho, mệt mỏi tòan thân, đau đầu, đau cơ, động vật non kèm theo các triệu chứng tiêu hóa như buồn nôn, tiêu chảy.
– Bệnh có tính lây lan nhanh trên phạm vi rộng và thường gây thành dịch và tử vong nhiều ở động vật non và già, lây nhiễm từ lòai này sang lòai khác và cả người.
– Do virus cúm A gây ra cho hầu hết các lòai gia thủy cầm, bệnh thường xuất hiện thể cấp tính , tỉ lệ chết cao, cúm týp A do virus H5N1 gây ra cho gà, có thể gây bệnh và làm chết người.
b) Tác nhân gây bệnh
– Virus cúm là một lọai virus có khả năng tồn tại khá lâu trong nhiều điều kiện khác nhau, nhất là ở nhiệt độ thấp, vì vậy dịch cúm thường xảy ra vào mùa lạnh.
– Trong điều kiện đông lạnh virus tồn tại khá lâu.
– Ở 22 độ C virus sống được 2 – 6 tháng.
– Trong không khí 33 độ C virus sống được 4 giờ.
– Ở nhiệt độ 60 độ C virus chết trong vòng 5 phút.
– Virus khá mẫn cảm với các lọai thuốc sát trùng gốc clo và iod cũng như chịu đựng kém với chất sát trùng mạnh như Fomol.
c) Cách lây truyền, thời kỳ ủ bệnh, thời kỳ lây lan, tính cảm nhiểm và đề kháng
– Đến nay chưa xác định được tất cả các đường lây truyền của virus cúm, nhiều khả năng virus lây gián tiếp qua đường không khí do hít phải virus dưới dạng khí dung hoặc do tiếp xúc trực tiếp với vật nuôi hay người có bệnh.
– Một nguồn lây rất quan trọng đó là các lòai chim di trú , thức ăn gia súc công ngiệp nhiễm virus cũng là nguồn lây truyền khá nguy hiểm cho các trại chăn nuôi.Thời kì ủ bệnh cúm từ 1 – 3 ngày.
– Thú mang bệnh có thể lây truyền bệnh cho thú khác từ 3 – 5 ngày sau khi có triệu chứng bệnh cho đến khi chết hoặc nhiều ngày sau khi hết bệnh.
– Mức độ bệnh thay đổi từ khi có triệu chứng đường hô hấp đến nhẹ , trầm trọng hay dẩn đến tử vong tùy vào lòai cảm nhiễm và các yếu tố khác như tuổi, giới tính, liều gây nhiễm, môi trường hay sự cộng nhiễm của các bệnh khác.
d) Triệu chứng và bệnh tích
Ở gia cầm giảm đẻ trứng, xuất hiện triệu chứng hô hấp như thở khó , có tiếng ran, chảy nhiều nước mắt, viêm xoang, xanh tím dưới da, đặc biệt là da cổ, và mào xuất huyết, phù đầu và mặt, xù lông, tiêu chảy, rối loạn thần kinh, tỉ lệ chết cao đến 100%. Trường hợp cấp tính gà bệnh chết mà không có triệu chứng điển hình. Bệnh tích đặc trưng ở gia cầm là phổi sưng , xuất huyết và họai tử. Buồng trứng và ruột viêm, xuất huyết não và cơ tim.
e) Chuẩn đoán bệnh và biện pháp phòng bệnh
– Chẩn đóan lâm sàng chỉ là phỏng đóan. Chần đoán xác định phải phân lập virus từ dịch tiết hay phân của thú bệnh qua nuôi cấy trên phôi trứng.
– Về phương diện thú y do bệnh không có thuốc đặc trị nên phòng bệnh là biện pháp chủ yếu để giảm thiệt hại.
– Phòng bệnh bằng cách tiêu độc và cách ly là biện pháp duy nhất để giảm thiệt hại.Trước mùa dịch các biện pháp vệ sinh tiêu độc chuồng trại là rất cần thiết để hạn chế mật số của virus gây bệnh. Tăng sức đề kháng bằng cách giảm mật độ cho gia súc uống hoặc trộn thức ăn Vitamin C và B12 để chống Stress do thức ăn và thời tiết là biện pháp tốt để giảm khả năng nhiễm bệnh của gia cầm.
– Trong mùa dịch không cho vật nuôi tiếp xúc với vật nuôi bệnh. Thường xuyên tiêu độc chuồng nuôi, phun thuốc sát trùng trong thời gian nuôi, giữa hai đợt nuôi chuồng phải được tiêu độc đúng kỹ thuật và bỏ trống, khô ít nhất 2 tuần. Tiêu độc kỷ các phương tiện ra vào trại chăn nuôi, hạn chế công nhân đi lại từ chuồng này sang chuồng khác. Hạn chế tối đa việc tham quan.
– Chống dịch: nếu xác định có nguy cơ lây nhiễm cho người thì phải tiêu diệt các vật nuôi nhiễm bệnh hay có nguy cơ nhiễm bệnh cao. Để dập tắt dịch cúm gia cầm bán kính 3 km tính từ ổ dịch được áp dụng để hủy các đàn trong khu vực. Ngưng vận chuyển, chế biến và tiêu thụ các sản phẩm từ gia cầm ngay trong vùng dịch. Tiêu độc, tẩy uế và vệ sinh nơi có dịch.
Chia Sẻ Cách Chữa Một Số Bệnh Thường Gặp Ở Chim Họa Mi
1-Bệnh ỉa chảy
Nguyên nhân, triệu chứng: Có nhiều nguyên nhân để chim mắc chứng ỉa chảy. Muốn điều trị tốt cần biết rõ nguyên nhân gây bệnh. + Thông thường nhất của chim họa mi là do chủ nhân ko nắm vững chế độ dinh dưỡng của chim, cho ăn quá nhiều mồi tươi hoặc trong cám có nhiều chất đạm quá không tiêu hóa hết. Thức ăn còn thừa lên men trong ruột, thải ra độc tố là chim ỉa lỏng, phân trắng như bột gạo kèm theo chất nhày của niêm mạc ruột. + Chim ăn phải thức ăn quá cũ, ẩm mốc dẫn đến ngộ độc Aflatoxin hoặc Micotoxin dẫn đến đi ỉa nước, cai lẫn lộn kèm tho chất nhày của ruột + Nhiếm khuẩn đường tiêu hóa… Điều trị: Việc đầu tiên là giảm hoặc ngừng hẳn việc cho ăn mồi tươi, chỉ cho ăn cám cò nhạt nếu chim bị nhẹ sẽ tự khỏi. Trường hợp nặng hơn: Hiện nay hàng chim nào cũng bán viên thuốc điều trị ỉa chảy của Trung Quốc. Thuốc này hòa với nước cho chim uống bệnh thường khỏi nhanh nhưng sau đó con chim thường mất sức trong một thời gian dài, hãy đến cửa hàng thuốc thú y mua viên thuốc điều trị tiêu chảy gia cầm của Việt Nam về hòa với nước cho uống trong 3 đến 4 ngày chim sẽ khỏi. Trường hợp chim ngộ độc nặng quá có thể tiêm Atropin (thuốc của người)với liều lượng 0,001 đến 0,002 g/lần cho một con chim. Ngày tiêm 2 lần dưới da. Bản thân mình hay dùng viên Écefuyril(thuốc của người) do Pháp sản xuất màu vàng, đóng 14 viên /vỉ. Loại này hơi đắt tí nhưng rất tốt, Vị hơi ngọt, không mùi, màu vàng chuyên để giải độc tiêu hóa và ỉa chảy. Thuốc mua về lấy ra hai viên, rút vỏ dốc bột màu vàng vào cóng cám cho chim tự ăn, vài ba ngày là khỏi. Đồng thời làm vệ sinh chuồng trại, dùng phích nước nóng dội vào sàn lồng mỗi ngày một lần sau khi làm vệ sinh.
2-Bệnh khàn tiếng.
Nguyênnhân: Chim bị khan tiếng có hai nguyên nhân đó là viêm thanh quản và giãn thanh quản Điều trị: Dùng một viên than củi bằng quả trứng gà ngâm vào nửa bắt nước lã sau một đêm, gạn lấy nước đó, vắt thêm mươi giọt nước chanh và bỏ vào vài hạt muối, đổ vào cóng cho chim họa mi uống, khoảng một tuần sau tiêng hot sẽ phục hồi dần.
3-Bệnh đau mắt
Thỉnh thoảng có con chim bị đau mắt do nhiễm khuẩn. Có người cho là do ăn nhiều sâu quy nên đau mắt. Mình không nghĩ như vậy vì mình cho chim ăn sâu quy thường xuyên nhưng chưa có con nào bó lông hay đau mắt nhưng mấy ông bạn thì có chim đau mắt rồi và nhờ mình chữa. Rất đơn giản là mua lọ Cloramphenicol về nhỏ mối ngày bốn năm lần. Chỉ vài ngày con nào cũng khỏi cả. Bệnh này xuất hiện ở chim cu gáy nhiều hơn họa mi.
4-Chết đột ngột, mất màu lông, bó lông…
Một số chim tự nhiên rơi xuống ngắc ngoải nếu cấp cứu kịp thời vẫn sống bình thường. Năm 1995 mình bị một trường hợp như vậy. Khi thấy con chim đang đậu trên cầu, tự nhiên rơi xuống sàn lồng, cánh vỗ vật vờ, mỏ ngáp chầm chậm. mình vội bắt ra ủ ấm và dùng viên Ampicilin trộn bột đút cho ăn vì mình nghĩ có thể có vi trùng nên dùng kháng sinh (Sau này mới biết là sai lầm). Đồng thời ngay lúc ấy mình hòa đường Glucoza bơm cho nó vài giọt. Mấy phút sau con chim đứng dậy bình thường, đặt vào lồng nó nhảy ngay lên cầu. Sau này do đọc nhiều tài liệu mới biết là nó thiếu khoáng chất nên bị đột quỵ. Chính mấy giọt đường Glucoza đã cứu nó thoát chết. Những con chim bị mất màu lông, hoặc bó lông chủ yếu cũng là thiếu nguyên tố vi lượng. Đặc biệt yến Kanari đỏ ko cho ăn khoáng rất mau bạc màu.
Nguồn: sưu tầm
Bồ Câu Non Mấy Tháng Thì Đẻ, Một Số Thông Tin Cơ Bản
Có nhiều bạn thắc mắc bồ câu non mấy tháng thì đẻ. Theo kỹ thuật nuôi bồ câu thì tùy vào nhiều yếu tố khác nhau từ giống bồ câu, thời tiết và chế độ dinh dưỡng mà thời gian bồ câu non đẻ lứa đầu có thể khác nhau ít nhiều. Thông thường bồ câu non được khoảng 4 – 6 tháng tuổi sẽ bắt đầu đẻ.
Bồ câu non mấy tháng thì đẻ
Như đã nói bên trên, tùy vào nhiều yếu tố khác nhau từ giống bồ câu, thời tiết và chế độ dinh dưỡng mà thời gian bồ câu non đẻ lứa đầu có thể khác nhau ít nhiều. Thông thường bồ câu non được khoảng 4 – 6 tháng tuổi sẽ bắt đầu đẻ lứa đầu.
Sau khi bồ câu trống đạp mái khoảng 2 tuần thì bồ câu mái sẽ đẻ trứng. Bồ câu mái thường mỗi lần chỉ đẻ 2 trứng, trứng đầu tiên thường đẻ vào khoảng 5 giờ chiều, trứng thứ hai khoảng 2 ngày sau sẽ đẻ tiếp.
Bồ câu đẻ bao nhiêu lần một năm
Chim bồ câu sau khi đẻ lứa đầu thì sẽ ấp trứng và nuôi con non. Khi con non ra ràng (khoảng 3 tuần) thì chim mẹ sẽ chuẩn bị đẻ lứa tiếp theo. Như vậy, bồ câu đạp mái khoảng 2 tuần thì đẻ, ấp trứng khoảng 17 ngày trứng sẽ nở và nuôi con trong khoảng 3 tuần sẽ bắt đầu đẻ lứa mới. Thời gian giữa các lần đẻ của bồ câu sẽ vào khoảng trên dưới 50 ngày. Tùy từng giống bồ câu mà thời gian đẻ này có thể khác nhau đôi chút nhưng một năm bồ câu thường chỉ đẻ khoảng 7 – 9 lứa:
Bồ câu ta: đẻ 7 – 8 lứa mỗi năm
Bồ câu gà: đẻ 7 – 8 lứa mỗi năm
Bồ câu Pháp: đẻ 7 – 9 lứa mỗi năm
Chú ý: sau khi bồ câu đẻ trứng sẽ tự ấp. Nếu bồ câu vô tình làm vỡ trứng thì chim sẽ phát hiện được trứng bị vỡ và sẽ đẻ tiếp sau 14 – 16 ngày chứ không phải 50 ngày như bình thường.
Như vậy, với câu hỏi bồ câu non mấy tháng thì đẻ câu trả lời là khoảng 4 – 6 tháng tuổi. Thời gian bồ câu đẻ lứa tiếp theo cách khoảng 50 ngày và mỗi năm đẻ 7 – 9 lần. Tùy vào điều kiện nuôi thực tế mà các con số này có thẻ chênh lệch it nhiều, do đó các bạn cần tìm hiểu về kỹ thuật nuôi chim bồ câu để đảm bảo bồ câu phát triển tốt và đẻ đúng thời gian.
Cập nhật thông tin chi tiết về Một Số Bệnh Ở Bồ Câu trên website Raffles.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!