Xu Hướng 12/2023 # Khúc Biến Tấu Của Một Loài Thiên Điểu # Top 17 Xem Nhiều

Bạn đang xem bài viết Khúc Biến Tấu Của Một Loài Thiên Điểu được cập nhật mới nhất tháng 12 năm 2023 trên website Raffles.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

[ Đăng ngày: 02/04/2013 ]

Giữa bộn bề của cuộc sống bon chen, con người thường tìm cách thư giãn bằng những giai điệu hồn nhiên, tinh tế mà tạo hóa ban tặng. Đó cũng là cái lý khiến tiếng hót mê hoặc của loài chim rừng ngày càng thưa dần trên đại ngàn hùng vĩ. Gần đây, giới “nghiện” chim cũng như những người yêu quý chim rừng không khỏi thán phục khi biết tin anh Trần Kết Luận (xã Hiếu Liêm, Tân Uyên) đã nghiên cứu thuần dưỡng và nuôi sinh sản thành công một loài chim quý có tiếng hót mê hồn, cùng vũ khúc “chạy kèo” làm say đắm lòng người và đem lại giá trị kinh tế cao: chim chích chòe lửa.

 

   Anh Luận hướng dẫn khách tham quan mô hình nuôi chim chích chòe lửa

Mặc dù khó nhưng chúng tôi vẫn tìm ra nhà anh Luận ở một địa bàn khá sâu của huyện Tân Uyên. Ngôi biệt thự xinh đẹp nằm giữa vườn bưởi rộng lớn, quanh nhà treo đầy lồng chim với bầy chó dữ canh chừng. Chủ nhà còn khá trẻ (36 tuổi), bản tính hồn nhiên, khoái đối ẩm cùng bạn bè và thích nói chuyện cây rừng, chim chóc. Anh Luận sinh ra, lớn lên ở Hiếu Liêm, từ lúc vùng đất này còn là chốn “khỉ ho, cò gáy”. Những tiết tấu diệu kỳ vào những buổi ban mai, những giai điệu gọi bạn, gọi đàn của những loài chim rừng đã khiến anh Luận nghiêng về thiên nhiên hồi nào không hay. Để chứng minh, chỉ một tiếng huýt sáo của anh Luận vang lên, lập tức hàng trăm con chim đua nhau đánh tiếng líu lo đáp trả. Trong bản hòa âm ấy, chúng tôi không khó để nhận ra đâu là tiết tấu của chích chòe, chào mào và đâu là hợp xướng của hồng tước, khướu, vàng anh… Vui tai nhất vẫn là tiếng của những con chim chích chòe lửa. Chúng đua nhau đánh đuôi, chạy kèo, đổi giọng từ huýt sáo sang tiếng hót của hồng tước, chào mào rồi giả làm tiếng chó sủa, trẻ con khóc oe oe…

Do từ nhỏ đã ở vùng sâu nên chủ nhà không có điều kiện để sở hữu những bằng cấp văn hóa. Tuy nhiên, nghiên cứu tập quán đời sống, thuần dưỡng và nhân giống chim chích chòe lửa thì ở Việt Nam hiếm có người nào sánh kịp anh Luận. Nói về cái duyên đến với chích chòe lửa, anh Luận cho hay: “Nghề chính của tôi là làm vườn trồng cam, trồng bưởi chứ không phải nuôi chim. Mấy năm gần đây, chích chòe lửa không còn nhiều vì bị săn bắt đến cạn kiệt. Ở Hiếu Liêm, chích chòe lửa có dáng đẹp, giọng hót hay nên tôi bỏ công tìm cách thuần dưỡng, nhân giống để lưu giữ loài chim đẹp của Hiếu Liêm”.

Anh Luận cho biết ngôn ngữ gợi tình của chim chích chòe lửa thường bắt đầu bằng bản hợp xướng vào ban mai trên đại ngàn. Sau khúc gợi tình ấy là những cuộc “ái ân” lãng mạn và kết quả là đàn chim non xinh xắn đáng yêu ra đời. Đối với chim nuôi nhốt, do thiếu những cung bậc gợi tình tuyệt vời như thế nên rất khó kích thích để chim sinh sản! Tuy nhiên, anh Luận đã làm được điều đó. Thậm chí anh đã thuần được 10 đôi chim chích chòe thuộc loại giống quý, có giá trị kinh tế cao. “Giang sơn” ấm áp của bầy chim chích chòe lửa do anh Luận tạo ra là những “căn lều” nhỏ, nằm xen giữa những vườn cây trái sum suê. Trong từng “căn lều” riêng, những đôi chim hoàn toàn hài lòng với những gì mình đang có: Cảnh quan núi rừng, những hòn non bộ hình núi cao, ẩn hiện xung quanh là những gốc cổ thụ bề thế, khe nước róc rách chảy… Những gốc cây rừng lên đến 300 tuổi, bị gãy đổ vẫn còn cành nhánh được anh Luận cắt tỉa cẩn thận dùng làm nơi để chích chòe đứng tắm nắng, rỉa lông, phô giọng hót gọi bạn tình. Anh Luận nói: “Tạo những gốc này để chim nhảy múa khỏi phải nhớ rừng sâu”. Lưng chừng các mái lều là những cái vò bằng sành sứ, được bố trí rất hợp lý để chim chích chòe lửa “lâm bồn”. Anh Luận giải thích: “Loài chích chòe vốn không khéo xây tổ, chúng thường chọn những bộng cây cổ thụ có sẵn lót ổ qua loa rồi đẻ trứng. Nhưng nếu mình làm tổ mà không đúng hướng gió, tạo độ ẩm không thích hợp và thu hút nhiều côn trùng đến cắn phá thì chích chòe cũng khó mà sinh sản và ấp nở thành công”.

 

 Một tổ chim chích chòe lửa chuẩn bị ấp

Chỉ vào đôi chích chòe lửa đang “hạnh phúc” trong khu rừng thu nhỏ trước nhà, anh Luận cho biết: “Rất khó để tìm được bạn tình hợp ý cho chim và thỏa ý mình. Mất mấy năm trời tôi mới chọn được chú chim trống ưng ý có bộ dáng tuyệt đẹp, tiếng hót hay, thanh thót. Tôi từng “gạ” cho nó nhiều cô chim mái có vóc dáng đẹp, giọng thanh thót và cứ tưởng chúng sẽ nhanh chóng “bén duyên” sẵn sàng cho ra đời những chú chim non tinh khôn đáng yêu. Nào ngờ kết quả của những mối tình “gượng ép” ấy thật bi thảm, bởi một khi không chịu, chim trống “vũ phu” đến mức đá chết bạn tình lúc nào không hay. Một con chim mái ưng ý đôi khi phải mua đến mấy triệu bạc, vậy mà phải hy sinh đến con mái thứ 6 thì chim trống mới chấp nhận bạn tình”. Hé nở nụ cười nhẹ, anh Luận khoe: “Giờ thì đôi chim này đang đẻ ra tiền. Chim bố mẹ sinh ra bao nhiêu là được khách đặt mua hết bấy nhiêu, giá 3 triệu đồng mỗi cặp, mỗi năm chim mẹ đẻ 8 lứa, mỗi lứa nở từ 4 đến 5 con”.

“Tôi sẵn sàng chia sẻ kinh nghiệm nuôi sinh sản chích chòe lửa. Nếu ai có nhu cầu tìm hiểu về kỹ thuật nuôi chim chích chòe lửa, xin cứ liên hệ qua số điện thoại: 0947.928000 ” (anh TRẦN KẾT LUẬN)

Chỉ vào những chú hồng tước, khướu, chào mào, anh Luận giải thích: “Chúng là thầy của chích chòe con đấy! Chim chích chòe con học theo tiếng của chúng khi bắt đầu lớn lên”: Anh Luận tự tin: “Chim chích chòe tôi cho sinh sản, nuôi lớn, bán ra giỏi hơn nhiều so với chim chích chòe đánh bắt tự nhiên. Chẳng những chúng biết ngôn ngữ của các loài chim ngoài tự nhiên mà còn biết cả tiếng em bé khóc, tiếng chó sủa, tiếng xe máy… Nuôi lâu có kinh nghiệm, nên anh Luận còn trở thành “bà mụ” cho chim chích chòe. Anh nắm quy luật sinh sản cũng như chủ động nuôi chuyền, dạy ăn, dạy hót cho chim non. Ngoài những chú hồng tước, chào mào, khướu líu lo dạy hát cho chim non, anh Luận còn sắm một dàn đĩa CD, cùng một cái máy cassette ghi âm sẵn hàng trăm thứ âm thanh khác nhau và phát liên tục để dạy chim non hót theo.

Anh Luận còn biết lắng nghe tiếng gọi tình của chim để chủ động bỏ rác vào tổ cho chúng xây tổ. Chim xây tổ khoảng 4 ngày thì bắt đầu đẻ trứng, sau đó ấp khoảng 10 – 12 ngày thì nở ra chim non, nuôi tiếp 8 ngày là chim non đủ lông, biết ăn. Lúc này, anh Luận chủ động tách bố mẹ để thuần dưỡng, dạy chúng theo ý mình. Anh Luận còn là “bác sĩ” giỏi giúp chim vượt qua cơn nguy kịch. Chỉ cần nhìn dáng điệu, ngửi mùi phân là anh có thể biết chim đang bị bệnh gì. “Chim thường bị bệnh đường ruột, khi lại gần lồng chim mà ngửi thấy mùi phân tanh tanh, phải nhanh chóng trộn thuốc vào thức ăn cho chim ăn. Phát hiện bệnh kịp thời có thể cứu chữa thành công đạt 70%”, anh Luận cho biết.

Từ thành công trong nuôi sinh sản chim chích chòe lửa hót, anh Luận đang tiến hành nuôi sinh sản chim khướu và thậm chí cả những loài chim ít xuất hiện ở miền Nam như họa mi. Từ thành công này của anh Luận sẽ làm nên điều kỳ diệu là những giai điệu độc đáo của thiên nhiên, núi rừng sẽ mãi đồng hành cùng cuộc sống con người. Quan trọng hơn, thành công của anh Luận sẽ góp phần bảo tồn những nguồn gien quý hiếm của các loài thiên điểu để thế hệ con cháu chúng ta còn diễm phúc thụ hưởng những bản giao hưởng tuyệt vời của thiên nhiên, mà chích chòe lửa là thiên sứ.

HÒA NHÂN – CHÍ THANH Theo baobinhduong.org.vn

Câu Hỏi Của Hoa Thiên Cốt

Sáng sớm tinh mơ, chiều vàng ngả bóng, nơi vườn quê, nơi sườn non, nơi cánh rừng ngọn suối, tiếng chim hót véo von… ta lắng tai nghe mà thấy yêu đời kì lạ. Tiếng chim của đất trời đôi với em là khúc hát của quê hương, là bài ca của sự sống. Tiếng chim nơi ngôi vườn của bà ngoại trong những tháng ngày hè, đối với em đã trở thành kỉ niệm. Nhất là tiếng hót của chim họa mi. Năm học lớp Ba, em bị ốm nặng. Bố mẹ đi công tác xa. Em ở với bà. Bà chăm sóc thuốc men mãi mà em vẫn đau yếu, người xanh xao gầy tóp lại. Nhiều tuần, bà thức trắng đêm. Thế rồi, một hôm sau cơn mưa rào, trời hửng nắng. Em nằm chập chờn bỗng nghe chim hót trên cây nhãn vườn bà. Hai con chim trống mái thi nhau cất tiếng hót véo von, lánh lót, réo rắt. Lần đầu trong cuộc đời, em mới được nghe chim hót hay như thế. Tiếng hót họa mi nghe thật “mê”, và kì lạ thay, cơn sốt chiều ấy dịu dần trong bóng chiều buông. Em thấy thanh thản lâng lâng. Em ngủ say lúc nào không biết. Sáng hôm sau, rồi chiều hôm sau, cặp chim họa mi lại đến hót ở vườn bà. Qua cành nhãn, em nhìn thấy hoạ mi đang sát cánh nhau cùng hót. Lúc đầu em ngỡ, họa mi phải đẹp lắm mới có giọng hót hay như thế. Nhưng không phải, lông họa mi không rực rỡ sắc màu như hoàng yến, như chim thiên đường,… mà chỉ khoác một màu nâu đỏ bình dị, mộc mạc. Xung quanh mắt chim có một vành lông trắng kéo dài từ đuôi mắt ra sau gáy, như một nét vẽ lượn sóng. Người ta gọi các “mi vẽ” ấy là “họa mi”, sau trở thành tên của con chim ca sĩ này chăng ? Cái mỏ màu ngà, cái cổ rướn cao… họa mi hót mê say, cả vườn cây như lắng nghe âm thanh lúc trong lúc đục, lúc nhặt lúc khoan, đầm ấm ríu ran. Họa mi hót sớm sớm chiều chiều như tiếng đàn thần đã làm cho em khỏi bệnh. Hơn tuần lễ sau, chim họa mi bay đi đến vườn quê nào, cánh rừng nào, em cứ bâng khuâng mãi. Có nhiều đêm nằm mơ, em vẫn nghe họa mi hót. Về lại thành phố, em nói lại với bố mẹ về tiếng chim họa mi hót nơi vườn bà. Hình như sau đó, mẹ em viết thư cho anh trai em, một sĩ quan Công an Biên phòng Tây Bắc. Tết năm ấy, anh về phép thăm nhà, và mang về cho em một đôi chim họa mi làm quà. Mỗi con được nhốt trong một chiếc lồng son vô cùng xinh xắn, cả nhà ai cũng vui thích về đôi chim họa mi ấy. Anh trai em còn cho biết: “ở các chợ miền núi, người ta nuôi và bán chim họa mi không chỉ để nghe giọng hót mà còn cho nó chọi nhau. Thế võ tranh hùng của họa mi lúc kịch chiến hấp dẫn lắm”Rồi không biết ai xui, độ tháng sau, em mở lồng cho chim họa mi bay đi. Em viết thư cho anh trai: “Anh ơi, họa mi đã làm cho em khỏi bệnh. Em đã trả lại tự do cho đôi chim họa mi là để tạ ơn loài chim thảo hiền ấy. Chắc là anh đồng tình với việc làm của em ?”… Mẹ em bảo: “Con còn bận học, thì giờ đâu mà nuôi chim ? Vả lại, con chim nào cũng cần tự do. Bầu trời bao la là cái lồng chim con ạ! Con làm thế là phải đạo…”

Đặc Điểm Của Một Số Loài Chim Có Thể Bạn Chưa Biết

Chim trĩ

Chim trĩ được biết đến là loài chim quý có giá trị kinh tế cao, do vậy nhiều người quan tâm và muốn sở hữu những con chim trĩ đẹp, với màu sắc nổi bật. Do vậy, đòi hỏi người nuôi cần phải am hiểu về các tập tính của chim trĩ, như chúng ăn như thế nào, sống ra sao, cách nuôi dưỡng thế nào để khỏe mạnh, và không bị bệnh tật. Đặc điểm của chim trĩ

Chim trĩ luôn thu hút sự chú ý của mọi người, bởi vẻ đẹp bên ngoài, là loại chim nhìn rất giống như gà chọi nhưng lại thấp và nhỏ hơn, và con trống có bộ lông đuôi dài với màu sắc sặc sỡ, bắt mắt.

– Chim trĩ xanh.

– Chim trĩ đỏ.

Trong đó, chim trĩ đỏ khoang cổ hay còn được biết với tên gọi là trĩ đỏ khoang cổ trắng, hay trĩ đỏ khoang Bắc Bộ, thuộc phân loài trĩ đỏ, được biết đến là loài chim quý hiếm.

Chim trĩ đỏ có đỉnh đầu và gáy nâu ánh xanh, trán, dải hẹp trên mắt, cằm họng và cổ đen ánh lục, xanh hay tím. Phía dưới cổ có vòng trắng ngắt đoạn ở phía trước và sau.

Các lông phần trên lưng có phần gốc nâu gụ thẫm, dải hẹp dọc ở giữa trắng nhạt mút lông đen hai bên phiến lông viền hung nâu rộng. Phần ngực hung nâu đỏ, mỗi lông đều có vệt đen hẹp ở dọc thân lông và mút lông chia thành 2 thùy tròn.

Chim trĩ đỏ có màu lông sáng, đầu và cổ có màu xanh kèm với một khoang trắng trên cổ, hay ở giữa ngực, cùng với các vết đốm đen hoặc nâu. Phần đuôi của nó dài và nhỏ với nhiều đường gợn sóng sẫm đen dày khít.

Trong điều kiện nuôi dưỡng, và chăm sóc tốt thì con đực đạt được trọng lượng 1,7kg, thậm chí có con còn đạt được 2kg, còn con mái nặng khoảng 1,2kg sau 5 tháng nuôi dưỡng.

Chim trĩ cái có phần đỉnh đầu và cổ nâu thẫm hay đen, với những vạch ngang hẹp màu hung đỏ, lưng và vai hung đỏ phớt nâu tím, cằm và họng màu vàng xám có vạch nâu thẫm. Phía trước cổ và phần trên ngực có những vạch và chấm đen thô và óng ánh màu hồng tối. Phần dưới ngực, sườn và bụng màu xám hung thẫm, vân nâu tối, phần giữa lông màu nâu đỏ thẫm. Mắt nâu đỏ, đùi nâu xỉn, da trần ở mặt đỏ tươi, mỏ và chân xám sừng.

Kinh nghiệm nuôi chim trĩ xanh

Để nuôi chim trĩ xanh, bạn cần nắm được các kinh nghiệm sau:

– Làm chuồng chim rất quan trọng, chuồng chim trĩ xanh cần đặt ở nơi khô ráo, thoáng mát, tránh ẩm ướt, mùa hè mát, mùa đông ấm áp. Bên cạnh đó, chuồng chim trĩ tuy thoáng nhưng phải đảm bảo hiện tượng chim bay mất đi, do vậy cần có nhiều cột, giàn leo để tạo thêm nhiều không gian cho chim vận động, tự do bay nhảy.

Nền chuồng bằng phẳng trơn láng, nhằm mục đích vệ sinh dễ dàng và giữ sạch sẽ, tốt nhất nên rải trấu độ dày từ 5- 8cm, và có lưới quây xung quanh chuồng nhằm không cho chim bay ra ngoài.

– Chế độ dinh dưỡng chủ yếu chim trĩ ăn ít hơn gà, thức ăn dễ kiếm như thóc, ngô, cám, gạo…hay bạn có thể sử dụng bèo tây, thân cây chuối thái nhỏ để làm thức ăn cho chim trĩ. Tuy nhiên bạn không nên cho ăn hải sản, vì dẫn đến tiêu chảy, mỗi ngày chỉ cần cho chim trĩ ăn từ 3- 4 bữa.

– Vệ sinh chuồng trại nuôi chim, cần đảm bảo sạch sẽ, để phòng ngừa bệnh cho chim. Đồng thời bạn cũng nên cho chim trĩ uống nước thường xuyên.

– Chim trĩ xanh được khoảng 8 tháng sẽ bắt đầu thời kỳ đẻ trứng, mỗi năm chim mái đẻ từ 70-80 quả, chim trĩ không tự ấp trứng đẻ nhờ vào tổ khác, do vậy mà mọi người thường nuôi nhân tạo, sử dụng máy ấp trứng để đạt kết quả tốt nhất.

Chim trĩ 7 màu có điểm gì nổi bật?

Hiện nay chim trĩ 7 màu ở Việt Nam được biết đến gồm có chim trĩ 7 màu đỏ, chim trĩ 7 màu xanh, và chim trĩ 7 màu vàng, trong đó chim trĩ 7 màu xanh được du nhập và thuần hóa để phù hợp với điều kiện khí hậu ở nước ta.

Chim trĩ 7 màu có chiều dài khoảng 85- 100cm, chim trống có bờm màu trắng viền thêm màu đen, đuôi dài có nhiều sọc trắng đen đan xen, trên đỉnh đầu có một chóp lông cam đỏ, với hình dáng oai dũng cường tráng, và sở hữu vẻ đẹp rất riêng.

Chim trĩ 7 màu mái có kích thước cơ thể nhỏ hơn, với đôi chân xanh và bộ lông nâu đậm hơn, mùa sinh sản kéo dài từ tháng 2 đến tháng 6 âm lịch.

Hiện nay chim trĩ 7 màu được xem là loại chim cảnh, mang đậm tính nghệ thuật, do vậy thường được nuôi ở trong các ngôi biệt thự, nhà vườn để làm cảnh.

Chim bói cá

Chim bói cá là những con chim nhỏ màu xanh và màu cam sáng không thể nhầm lẫn, chúng thường hoạt động ở các vùng nước di chuyển chậm hoặc nước tĩnh. Chúng bay nhanh, thấp trên mặt nước và săn cá ven sông, thỉnh thoảng bay lơ lửng trên mặt nước. Chúng dễ bị tổn thương bởi mùa đông và do suy thoái môi trường sống bởi ô nhiễm.

Loài chim bói cá nhỏ nhất là chim bói cá lùn châu Phi ( Ispidina lecontei ), có chiều dài trung bình 10 cm và nặng từ 9 đến 12g.

Chim bói cá lớn nhất ở châu Phi là chim bói cá khổng lồ ( Megaceryle maxima ), có chiều dài từ 42 đến 46 cm và nặng 255,45 g.

Chim bói cá Úc quen thuộc được gọi là kookaburra ( Dacelo novaeguineae ) là loài nặng nhất với con cái đạt trọng lượng gần 500 gram.

Đặc điểm của chim bói cá

Bộ lông của hầu hết cá bói cá đều sáng, với màu xanh lá cây và màu xanh nước biển là màu phổ biến nhất. Độ sáng của màu sắc không phải là sản phẩm của ánh kim (ngoại trừ ở chim bói cá Mỹ) hay sắc tố, mà thay vào đó là do cấu trúc của lông vũ, gây ra sự tán xạ ánh sáng xanh. Ở hầu hết các loài, không có sự khác biệt công khai giữa hai giới; khi có sự khác biệt, chúng khá nhỏ (dưới 10%).

Chúng thường có chân ngắn, mặc dù các loài ăn trên mặt đất có cổ chân dài hơn. Hầu hết các loài có bốn ngón chân, ba trong số đó là hướng về phía trước.

Tròng đen của hầu hết các loài chim bói cá có màu nâu sẫm. Chim bói cá có tầm nhìn tuyệt vời; chúng có khả năng nhìn hai mắt và đặc biệt được cho là có thị lực tốt. Chúng đã hạn chế chuyển động của mắt trong hốc mắt, thay vào đó sử dụng chuyển động đầu để theo dõi con mồi. Ngoài ra, chúng có khả năng bù cho khúc xạ của nước và phản xạ khi săn con mồi dưới nước, và có thể phán đoán độ sâu dưới nước một cách chính xác. Chúng cũng có màng bao phủ mắt để bảo vệ chúng khi chúng rơi xuống nước.

Chim bói cá sống khắp các vùng nhiệt đới và ôn đới của thế giới, đặc biệt là ở miền trung và miền nam nước Anh, trở nên ít phổ biến hơn ở phía bắc nhưng sau một số sự suy giảm trong thế kỷ trước, chúng hiện đang gia tăng trong phạm vi của chúng ở Scotland. Chúng được tìm thấy ở những vùng nước tĩnh hoặc vùng nước chảy chậm như hồ, kênh và sông ở vùng thấp. Vào mùa đông, một số con chim bói cá di chuyển đến cửa sông và bờ biển.

Trong khi chim bói cá thường được tìm thấy ở các khu vực có sông và hồ, hơn một nửa các loài trên thế giới được tìm thấy ở suối trong rừng. Chúng cũng chiếm một loạt các môi trường sống khác. Chim bói cá lưng đỏ của Úc sống trong những sa mạc khô cằn nhất, mặc dù cá bói cá không xuất hiện ở những sa mạc khô cằn khác như Sahara. Các loài khác sống cao trên núi, hoặc trong rừng mở và một số loài sống trên đảo san hô nhiệt đới. Nhiều loài đã thích nghi với môi trường sống bị biến đổi của con người, đặc biệt là những loài thích nghi với rừng và có thể được tìm thấy ở các khu vực trồng trọt và nông nghiệp, cũng như các công viên và vườn trong thị trấn và thành phố.

Chim bói cá sinh sản trong năm trưởng thành đầu tiên của chúng và sự hình thành cặp thường bắt đầu vào tháng 2. Nếu con đực và con cái có lãnh thổ lân cận, chúng có thể hợp nhất cho mùa sinh sản.

Cả hai con chim đào hang vào đất cát không có đá của một bờ suối thấp, thường cách đỉnh khoảng 0,5m. Những con chim chọn một bờ thẳng đứng rõ ràng của thảm thực vật, vì điều này cung cấp một mức độ bảo vệ hợp lý từ động vật ăn thịt.

Sinh sản ở chim bói cá

Đường hầm tổ thường dài 60 – 90cm và đường kính 6cm chỉ rộng hơn một chút so với chim. 2 – 3 con bố mẹ thay phiên nuôi chim con, bình thường trong cùng một tổ.

Cả hai con trưởng thành ấp trứng và chim con nở 19 – 21 ngày sau đó. Mỗi con chim non có thể ăn 12 – 18 con cá một ngày và chúng được cho ăn luân phiên.

Những con bói cá con thường sẵn sàng rời khỏi tổ khi chúng 24 – 25 ngày tuổi, nhưng nếu nguồn cung cấp thức ăn kém, chúng có thể mất tới 37 ngày. Sau khi rời khỏi tổ, con non chỉ được cho ăn bốn ngày trước khi con trưởng thành đuổi chúng ra khỏi lãnh thổ và bắt đầu ấp trứng tiếp theo.

Chim bói cá ăn chủ yếu là cá như cá mỏ và cá gai, nhưng chúng cũng ăn côn trùng thủy sinh, tôm nước ngọt và nòng nọc v.v … để tăng cường chế độ ăn uống. Chúng thích cá có chiều dài khoảng 23 mm, nhưng vẫn có thể xử lý bất cứ thứ gì dài tới 80mm.

Món cá lý tưởng là những con cá rô vững chắc thường thấy ở một hồ nước cạn, trong vắt. Một khi con chim đã xác định được con mồi phù hợp và đánh giá độ sâu của nó, nó sẽ lặn. Khi vào nước, mỏ của nó được mở ra và mắt nó nhắm lại bởi mí thứ ba.

Lãnh thổ là vô cùng quan trọng đối với chim bói cá. Bất kỳ loài chim nào cũng có khả năng bị diệt vong nếu không có nguồn cung cấp thức ăn đầy đủ. Điều này đặc biệt quan trọng trước khi mùa đông bắt đầu đến. Những con chim bắt đầu cuộc thi lãnh thổ vào giữa tháng 9. Một cặp sinh sản thường sẽ phân chia lãnh thổ vào mùa hè. Thời tiết đóng băng đôi khi có thể buộc những con chim ra khỏi lãnh thổ của chúng, thường đưa chúng đến môi trường sống ít phù hợp hơn hoặc xung đột với những con chim bói cá khác.

Người ta cho rằng chỉ một nửa số chim bói cá tồn tại hơn một hoặc hai tuần.

Mặc dù chỉ một phần tư sống sót để sinh sản vào năm sau, nhưng điều này là đủ để duy trì số lượng chim bói cá. Tương tự như vậy, chỉ một phần tư số chim trưởng thành sống sót từ mùa này sang mùa khác. Rất ít chim sống lâu hơn một mùa sinh sản. Con chim già nhất được ghi nhận chỉ 7,5 năm.

Hầu hết chim bói cá chết vì lạnh hoặc thiếu thức ăn trong một mùa đông khắc nghiệt. Mặc dù năng suất sinh sản cao, quần thể có thể mất nhiều năm để phục hồi sau một mùa đông tồi tệ. Điều kiện thời tiết vào mùa hè cũng có thể gây tử vong đáng kể. Thời tiết lạnh hoặc lũ lụt vào mùa hè có thể làm cho việc đánh bắt cá trở nên khó khăn, dẫn đến tình trạng chết đói của chim bố mẹ.

Chim tu hú

Các mối đe dọa với chim bói cá

Chim tu hú hay còn gọi là tu hú châu Á, sống tập trung ở các vùng đồng bằng và trung du Nam Á, từ Ấn Độ, Sri Lanka, đông nam Trung Quốc, quần đảo Sunda Lớn tới bán đảo Đông Dương và Thái Lan.

Đây là một loài chim cu lớn, đuôi dài 45cm. Tu hú là một loài chim thuộc loài chim cu lớn có kích thước khoảng từ 39 đến 6 cm (15 đến 18 in ) và nặng khoảng từ 190 đến 327 gam (6,7111,5 oz), có đuôi dài.

Chim tu hú trống có lông đen hoàn toàn với ánh xanh thẫm. Chim tu hú mái có lông đốm đen nhạt, trắng, mặt lưng có màu nâu đen nhạt ánh xanh lục và lốm đốm trắng. Đầu của chim mái hơi nhạt và hung hơn chim đực. Các điểm trắng dài ra thành vệt dọc ở lông đuôi và lông cánh. Vệt trắng chuyển thành vằn ngang không đều, mặc bụng trắng và có vằn đen.

Chim tu hú có khả năng di chuyển rộng và khả năng thích nghi ở vùng có nhiệt độ cao. Chim tu hú có thể phát triển phạm vi phân bố và là một trong những loài chim đầu tiên cư trú ở đảo núi lửa Krakatoa.

Chim tu hú non có lông đen toàn thân. Sau thời kỳ thay lông đầu tiên bộ lông của nó sẽ chuyển sang màu giống của chim mái. Còn chim tu hú trống non thì có bộ lông đỏ. Sau khi thay lông sẽ chuyển sang bộ lông trưởng thành với mỏ xanh xám, góc mỏ đen, mắt đỏ, chân xám chì.

Như vậy, chim tu hú có nhiều đặc điểm dễ nhận dạng và có số lượng cá thể lớn trong tự nhiên. Vậy loài chim này có những đặc tính gì, chúng ta cùng tìm hiểu ở phần tiếp theo của bài viết.

Đặc tính của chim tu hú khác biệt khá nhiều so với các loài chim khác. Tu hú là một loài chim sống nhờ trong các tổ chim khác. Vì chúng là loài chim không bao giờ làm tổ để đẻ trứng và nuôi con. Tu hú là loài chim đẻ nhờ, không ấp trứng và không nuôi con. Chúng thường đẻ nhờ trứng vào những tổ chim chích và tổ chim sáo sậu. Và đặc biệt mỗi khi đi đẻ nhờ, chim tu hú chỉ đẻ mỗi tổ 1 quả trứng duy nhất.

Bất kể loài nào trong thế giới tự nhiên đều được sinh ra, nuôi dưỡng và dạy dỗ bởi bố mẹ của mình, nhưng đời sống của loài tu hú lại nằm ngoài quy luật tự nhiên đó. Thay vì làm tổ, đẻ trứng rồi ấp và chăm con như những loài chim khác, vào mùa sinh sản, chim tu hú cái thường đi tìm tổ chim chích và gửi trứng của mình ở trong đó.

Vậy nên, chim tu hú được coi là loài chim nguy hiểm và không được nhìn nhận tốt trong giới tự nhiên. Chim tu hú ăn gì là vấn đề sẽ được giải đáp ở phần tiếp theo của bài viết này.

Chim tu hú là loài ăn tạp, chúng ăn tất cả các loại côn trùng, sâu bướm, trứng và các động vật có xương sống nhỏ cũng như ăn cả trái cây. Tu hú mẹ không có khả năng tha mồi nuôi con vì chim mẹ chuyên ăn sâu, ăn cả những con sâu có nọc độc, độc tố.

Tuy nhiên, tu hú con khi nở ra sẽ ăn thịt loài chim non khác ở trong tổ và nhận được sự chăm sóc toàn hoàn của những chú chim đó. Bởi vậy, tu hú trong giới tự nhiên không được nhiều loài chim khác chào đón. Bạn đọc còn thắc mắc về cách đẻ trứng và chăm con của chim tu hú, phần tiếp theo của bài viết sẽ giải đáp thắc mắc này.

Chim tu hú ăn gì?

Thực tế, đặc tính gửi trứng trong tổ chim khác là điểm đặc thù chỉ có ở chim tu hú. Thông thường, quá trình này sẽ diễn ra như sau: Chim tu hú đực sẽ có nhiệm vụ bay vờn xung quanh để thu hút và đánh lạc hướng chim chủ. Khi chim chủ bị đánh lạc hướng thì tú hú cái vào đẻ 1 quả trứng của mình vào tổ. Chúng thường rình và lựa chọn những tổ chim nào mới đẻ được 1-2 ngày.

Khi đẻ 1 quả trứng vào tổ, để tránh bị phát hiện của chim chủ thì chim tu hú mẹ sẽ ăn 1 quả trứng. Với kích thước và các hoa vân trên vỏ trứng gần giống với trứng của chim chích nên chim chích bố mẹ không hề phát hiện. Chim tu hú mẹ có thể tính được thời gian mà trứng của chúng sẽ nở, con của tu hú sẽ nở trước 2, 3 ngày hoặc ít nhất cũng bằng với các con chim chủ.

Khi chim non nở ra trước, chúng sẽ sử dụng sức mạnh của đôi cánh và phần lưng để đẩy những con chim non khác hoặc trứng ra khỏi tổ để độc chiếm nguồn thức ăn. Chim tu hú con lớn rất nhanh và đến khi đủ lông đủ cánh thì chúng sẽ bỏ đi.

Chim hồng hạc

Chim hồng hạc là loài chim lớn có thể nhận dạng với cái cổ dài, chân dính và lông màu hồng hoặc đỏ. Chim hồng hạc thể hiện câu nói “bạn là những gì bạn ăn.” Màu hồng và màu đỏ của lông chim hồng hạc đến từ việc ăn các sắc tố có trong tảo và động vật không xương sống.

Chim hồng hạc lớn

Chim hồng hạc ít hơn

Chim hồng hạc Chile

Chim hồng hạc Andean

Chim hồng hạc James

Chim hồng hạc Mỹ.

Chim hồng hạc lớn là loài cao nhất. Nó cao 1,2 đến 1,45 mét và nặng tới 3,5 kg. Loài bé nhất là chim hồng hạc nhỏ, đứng 80 cm và nặng 2,5 kg. Sải cánh của hồng hạc dao động từ 95 cm đến 150 cm.

Chim hồng hạc Mỹ sống ở Tây Ấn, Yucatán, ở phía bắc Nam Mỹ và dọc theo Quần đảo Galapagos.

Chim hồng hạc Chile, Andean và James sống ở Nam Mỹ.

Hồng hạc lớn và nhỏ sống ở châu Phi.

Chim hồng hạc lớn hơn cũng có thể được tìm thấy ở Trung Đông và Ấn Độ.

Chim hồng hạc là loài chim nước, vì vậy chúng sống trong và xung quanh đầm hoặc hồ. Những cơ thể của nước có khả năng bị nhiễm mặn hoặc kiềm. Chim hồng hạc thường không di cư, nhưng những thay đổi về khí hậu hoặc mực nước trong khu vực sinh sản của chúng sẽ khiến chúng phải di dời.

Chim hồng hạc có màu hồng vì tảo mà chúng ăn được nạp beta carotene, một hóa chất hữu cơ có chứa sắc tố màu đỏ cam. (Beta carotene cũng có mặt trong nhiều loại thực vật, nhưng đặc biệt là trong cà chua, rau bina, bí ngô, khoai lang và, tất nhiên, cà rốt). Các loài nhuyễn thể và giáp xác chim hồng hạc ăn có chứa carotenoids tương tự.

Chim hồng hạc sống ở đâu?

Mức độ caroten (sắc tố hữu cơ) trong thức ăn của chúng khác nhau ở các khu vực khác nhau trên thế giới, đó là lý do tại sao chim hồng hạc Mỹ thường có màu đỏ tươi và màu cam, trong khi những con hồng hạc nhỏ của hồ Nakuru bị hạn hán ở miền trung Kenya có màu hồng nhạt hơn.

Nếu một con hồng hạc ngừng ăn thức ăn có chứa carotenoids, lông mới của nó sẽ bắt đầu mọc với màu nhạt hơn nhiều, và lông đỏ của nó cuối cùng sẽ rụng đi. Lông lột xác mất màu hồng nhạt.

Những gì một con hồng hạc ăn phụ thuộc vào loại mỏ mà nó có. Ít hơn, chim hồng hạc của James và Andean có thứ được gọi là mỏ ngắn, nó ăn chủ yếu là tảo. Chim hồng hạc lớn, Chile và Mỹ có mỏ ngắn hơn, cho phép chúng ăn côn trùng, động vật không xương sống và cá nhỏ.

Chim hồng hạc ăn gì?

Để ăn, chim hồng hạc sẽ khuấy động đáy hồ bằng chân và thả mỏ của chúng xuống bùn và nước để tìm thức ăn.

Các nhóm hồng hạc được gọi là đàn. Đàn hồng hạc làm việc cùng nhau để bảo vệ nhau khỏi những kẻ săn mồi và chăm sóc con non.

Người ta tin rằng chim hồng hạc là cặp “một vợ một chồng”. Một khi giao phối, chúng có sẽ ở lại với người bạn đời đó. Một nhóm hồng hạc sẽ giao phối cùng một lúc để tất cả chim con sẽ nở cùng một lúc. Các cặp sẽ làm tổ trên đống bùn và các con cái sẽ đẻ một quả trứng cùng một lúc.

Mỗi quả trứng lớn hơn một chút so với trứng gà lớn, dài từ 78 đến 90 mm và 115 đến 140 gram. Trứng sẽ mất từ ​​27 đến 31 ngày để nở và chim con mới nở sẽ chỉ nặng 73 đến 90 g.

Chim hồng hạc con có màu xám hoặc trắng. Chúng sẽ chuyển sang màu hồng trong vài năm đầu đời. Chim hồng hạc sống 20 đến 30 năm trong tự nhiên hoặc lên đến 50 năm trong một sở thú.

Thói quen

Sếu đầu đỏ

Sếu đầu đỏ trưởng thành có bộ lông màu xám ngọc trai, phần má có chùm lông màu trắng, phần dưới hong và quanh gáy có chút lông màu đen. Lông phần đầu cánh cũng có màu đen. Sếu đầu đỏ mặt màu vàng cam, mỏ màu lục nhạt, da trên đỉnh đầu có màu xám lục, da trần ở đầu có màu đỏ tươi.

Tình trạng bảo tồn

Sếu đầu đỏ phân bố chủ yếu ở các nước Đông Nam Á như Việt Nam, Lào, Campuchia, Thái Lan, Myanma và tỉnh Vân Nam của Trung Quốc. Ước tính số lượng loài này hiện nay bị suy giảm nghiêm trọng, chỉ còn hơn 1000 cá thể. Năm 2023, chỉ phát hiện còn 11 cá thể được phát hiện tại khu vực Tràm Chim, Đồng Tháp.

Sếu đầu đỏ là loài vật ăn tạp, nhưng chủ yếu vẫn là củ năng, một loại cây chỉ phát triển ở các vùng đầm lầy ngập mặn. Mỗi độ xuân về, là thời điểm mà cây năng phát triển mạnh và cho củ, sếu di chuyển thành đàn từ Lào và Campuchia về để kiếm ăn, sau đó chúng lại bay trở về để sinh sản. Ngoài ra, sếu đầu đỏ có thể ăn bất kì các loại thức ăn nào mà chúng phát hiện được như tôm cá nhỏ, côn trùng, rễ cây, lúa, các loài giáp xác và động vật có vú nhỏ.

Sếu đầu đỏ (Grus antigone sharpii) là một trong những loài chim quý hiếm, nằm cả trong sách đỏ Việt Nam và cả sách đỏ thế giới IUCN. Cần phân biệt sếu đầu đỏ với 2 loại gần giống đó là sếu đỉnh đầu đỏ, hay còn gọi là sếu Nhật Bản (Grus japonensis) và loài sếu phụ Ấn Độ (Antigone antigone). Hình dạng và kích thước

Sếu đầu đỏ sống rất hiền hòa, đoàn kết và chung thủy thường tụ tập với nhau thành những bầy lớn. Do đó, ở một số nền văn hóa, sếu đầu đỏ là tượng trưng cho sự thanh cao và thánh thiện.

Tới tuổi trưởng thành, con đực sẽ tìm và quyến rũ con cái. Chúng kết đôi và sống chung thủy đến hết cuộc đời. Nếu một con mất đi, con sếu còn lại có thể tuyệt thực để đi theo bạn đời.

Mùa sinh sản của sếu đầu đỏ vào mùa mưa, từ tháng 7 đến tháng 10 hàng năm. Cũng giống như các loài chim di trú khác, sếu mỗi năm chỉ đẻ 1 lứa, thường là 2 trứng. Tuy nhiên, tỉ lệ nở ra và sống sót của con non là rất thấp, thường chỉ 1 con sống sót được đến lúc trưởng thành.

Đầu tiên phải kể đến là môi trường sống, ngày càng bị thu hẹp. Theo ước tính của vườn quốc gia Tràm Chim, nơi xuất hiện của sếu đầu đỏ ở Việt Nam thì diện tích rừng và đồng cỏ nơi đây đang bị thu hẹp nhanh chóng.

Thức ăn

Nếu như năm 2009, diện tích đồng cỏ là 1100 ha thì tới năm 2013 chỉ còn 600 ha. Sự sụt giảm về diện tích đồng cỏ này chủ yếu tới từ việc cháy rừng và các hoạt động khai thác của con người. Diện tích rừng giảm cũng khiến cho số lượng sếu giảm theo.

Đe dạo tiếp theo là sự bắt để buôn bán và làm thịt trứng, chim non và chim trưởng thành. Trứng chim sếu non phải đối mặt với sự tấn công của loài quạ và nhiều loài động vật, khiến số lượng chim non được ra đời rất thấp, cùng với việc săn bắt của con người khiến cho số lượng loài sếu càng sụt giảm nghiêm trọng hơn.

Kết đôi và sinh sản

Sự sụt giảm nghiêm trọng về số lượng loài sếu về Việt Nam khiến cho các cơ quan chức năng phải vào cuộc để thay đổi tình hình. Nếu như năm 1987 số lượng sếu về rất đông với 1052 con thì tới năm 2023 chỉ còn 11 con. Đây là một tín hiệu rất đáng báo động. Sự sụt giảm số lượng chim di trú về là do môi trường sống bị thu hẹp và nguồn thức ăn khan hiếm.

Tuy nhiên, từ năm 2007 trở lại đây, tổ chức bảo tồn thiên nhiên thế giới WWF đã triển khai nhiều hoạt động nhằm phục hồi môi trường sống cho sếu, đồng thời phát triển lại cây cỏ năng, thức ăn chính của loài sếu.

Chính nhờ động thái tích cực này mà số lượng sếu về đây hàng năm có xu hướng gia tăng. Tiếp nối thành công này, WWF cũng đang triển khai các hoạt động này ở khu vực Láng Sen, nhằm tạo thêm môi trường sinh sống cho loài sếu đầu đỏ.

Các mối đe dọa

Cú tuyết

Mặc dù phải nhìn rất kỹ để nhìn thấy chúng, cú tuyết cũng có những búi tai rất nhỏ, những chiếc lông nhỏ nhô lên hai bên đầu. Cú tuyết chưa trưởng thành lông chúng thường có màu đen. Con cái trưởng thành cũng giữ lại một số dấu hiệu lông màu tối hơn, trong khi con đực có ít nhất.

Dù bằng cách nào, sự kết hợp màu sắc tuyệt đẹp này làm cho loài này không thể nhầm lẫn trong thế giới cú. Sự kết hợp màu sắc này cũng giúp những con cú này hòa quyện với môi trường xung quanh đầy tuyết của chúng, cung cấp cho chúng thêm “vỏ bọc” khi đi săn ở địa hình rộng mở. Tất nhiên, khi không có tuyết, những con cú này khá dễ phát hiện trên nền màu xanh lá cây hoặc nâu.

Bảo tồn sếu đầu đỏ

Cú tuyết giống như nhiều con cú khác, được bao phủ từ đầu đến chân bằng lông vũ. Bởi vì chúng sống ở vùng cao, lạnh, lông trên chân và bàn chân của chúng có nhiều lớp hơn so với những con cú khác sống ở vùng khí hậu ấm hơn.

Một trong những vai trò của lông cú tuyết là để giúp giữ ấm. Lông, tất nhiên cũng giúp chim bay. Giống như những con cú khác, phần cuối của lông bay của cú Tuyết rất mềm và tốt, có lông cho nó khả năng bay trong im lặng tuyệt đối vì không khí không tạo ra tiếng ồn khi đi qua lông mềm. Điều này giúp chúng là những thợ săn rất lén lút. Vì Cú Tuyết thường bay thấp trên mặt đất khi đi săn, điều quan trọng là con mồi của chúng không nghe thấy chúng đến!

Nhiều con cú sử dụng thính giác đặc biệt của chúng để giúp chúng xác định vị trí con mồi và Cú Tuyết cũng không phải là một ngoại lệ. Mặc dù chúng sử dụng thị lực nhạy bén để tìm những miếng thức ăn ngon, chúng sống ở những khu vực thường có mặt đất phủ đầy tuyết. Khi đây là trường hợp, nhiều động vật có vú nhỏ di chuyển xung quanh bằng cách chui xuống dưới lớp tuyết không dễ nhìn thấy. Cú Tuyết có thể phát hiện vị trí chính xác của một con chuột đồng, nhảy xuống và bắt lấy nó ra khỏi tuyết mà không một lần đặt mắt lên nó! Loài gặm nhấm nhỏ, tất nhiên, không bao giờ thấy nó đến.

Tuy nhiên, Cú Tuyết được biết là di chuyển khoảng cách xa đáng ngạc nhiên vượt xa phạm vi bình thường của chúng. Hiện tượng này được gọi là sự gián đoạn và các nhà khoa học tin rằng có hai lý do chính khiến điều này xảy ra.

Nó có thể xảy ra khi quần thể vượn cáo và chuột đồng – vật phẩm con mồi chính của Cú Tuyết – rất thấp. Điều này sẽ buộc những con cú này đi xa hơn và tìm kiếm thức ăn.

Hoặc chỉ ngược lại có thể đúng. Nếu quần thể con mồi rất cao, cú có thể có mùa sinh sản rất thành công và sinh ra rất nhiều con non. Rất nhiều cá nhân tạo ra rất nhiều sự cạnh tranh. Trong trường hợp này, những con cú này cũng sẽ phải đi xa hơn để tìm thức ăn và tránh cạnh tranh với những con cú khác.

Khi một sự gián đoạn xảy ra, Cú Tuyết đã được biết là di chuyển đến tận phía nam như phía bắc California, Texas và Oklahoma. Trong thực tế, Cú Tuyết thích sống ở những khu vực mở có ít cây cối. Ở Bắc Cực, chúng sống ở vùng lãnh nguyên, nhưng cũng sống trên đồng cỏ và cánh đồng mở.

Cú Tuyết thích ăn chuột đồng và các loài gặm nhấm nhỏ khác và cần ăn vài ngày chỉ để sống sót. Tuy nhiên, Cú Tuyết giống như hầu hết các loài săn mồi khác, rất cơ hội, điều đó có nghĩa là chúng sẽ săn bắn bất cứ thứ gì chúng có thể bắt được. Chúng đã được biết đến để săn các động vật có vú khác, chẳng hạn như sóc và thỏ rừng, và các loài chim. Khi có thể tìm thấy chúng, những con cú thậm chí sẽ lấy cá, động vật lưỡng cư, động vật giáp xác và côn trùng.

Trong khi hầu hết các con cú hoạt động chủ yếu vào ban đêm, Cú Tuyết săn mồi vào ban ngày, đặc biệt là vào mùa hè khi ngày rất dài.

Cú Tuyết có một số chiến lược săn bắn hiệu quả. Thông thường chúng đậu trên cây, cột, đá hoặc trên mặt đất, âm thầm theo dõi bữa ăn tiếp theo của chúng. Chúng có thể dành một phần thời gian tốt trong ngày để ngồi và chờ đợi. Hoặc, chúng có thể bay thấp trên mặt đất để tìm kiếm thứ gì đó để ăn. Khi chúng phát hiện ra thứ gì đó ngon miệng di chuyển dọc theo mặt đất, chúng sà xuống con mồi. Khi săn chim, như bạn có thể tưởng tượng, chúng lấy mỏ đá của chúng trực tiếp trong không khí hoặc khi săn cá, chúng sẽ giật chúng lên khỏi mặt nước. Chúng thậm chí còn được biết là giật con mồi khi đi trên mặt đất.

Tuy nhiên, nhìn chung, Cú Tuyết không có gì phải lo lắng từ những kẻ săn mồi. Một trong những mối đe dọa lớn nhất mà những con chim xinh đẹp này phải đối mặt có thể là biến đổi khí hậu.

Theo quy luật, chim săn mồi rất nhạy cảm với những thay đổi của môi trường. Quần thể của chúng có thể bị ảnh hưởng bởi mất môi trường sống hoặc giảm số lượng con mồi. Biến đổi khí hậu có thể gây ra nhiều trong số những điều này xảy ra. Khi nhiệt độ ấm lên, nhiều động vật và con người có thể bắt đầu di chuyển xa hơn về phía bắc, và động vật thích nghi với nhiệt độ cực lạnh sẽ ngày càng ít nơi để chạy đến.

Như có thể tưởng tượng, sống ở miền bắc xa xôi là vô cùng khó khăn, ngay cả đối với Cú Tuyết, một loài chim thích nghi tốt với môi trường sống lạnh và khô cằn. Nhưng mọi thứ có thể sẽ còn trở nên khó khăn hơn nữa đối với kẻ săn mồi này và tất cả các loài thực vật và động vật sống phụ thuộc vào Bắc Cực để sinh tồn. Với nhiệt độ trung bình hàng năm ở Bắc Cực đã tăng gần gấp đôi tốc độ trung bình được ghi nhận trên toàn cầu, tương lai của Cú Tuyết và nhiều loài Bắc cực khác có thể gặp nguy hiểm.

Chim ưng peregrine

Ở Bắc Mỹ, chúng có kích thước rất lớn, có chiều dài từ 36 đến 49 cm ở con đực và 45 đến 58 cm ở con cái. Sải cánh thay đổi từ 91 đến 112 cm. Chúng nặng trung bình 907 g. Giống như hầu hết các loài chim săn mồi, chim ưng peregrine cái lớn hơn một chút so với con đực. Chúng thường lớn hơn 15-20% và nặng hơn 40-50% so với con đực.

Những mối đe dọa tiềm tàng với loài Cú Tuyết

Chim ưng Peregrine có đôi cánh màu xanh lam và xám, những thanh màu đen trên lưng và phần dưới nhợt nhạt. Chúng có khuôn mặt trắng với một sọc đen trên mỗi má và đôi mắt to, đen. Chim non có màu tối hơn và nâu hơn, với vệt phần dưới.

Chim ưng Peregrine được tìm thấy trên toàn thế giới, ngoại trừ rừng mưa nhiệt đới và vùng Bắc cực khô lạnh. Chúng là một trong những loài động vật có xương sống trên cạn phổ biến nhất trên thế giới. Hầu hết các quần thể chim ưng peregrine ở miền nam và đảo đều là cư dân, chúng không di cư.

Chim ưng Peregrine di chuyển khoảng cách xa giữa sinh sản và phạm vi mùa đông. Quần thể cực bắc sinh sản ở vùng lãnh nguyên Alaska và Canada, và di cư đến miền trung Argentina và Chile. Chúng thường di cư dọc theo bờ biển, bờ hồ dài, đảo chắn, dãy núi hoặc trên biển.

Loài chim ưng này thích môi trường sống mở, như đồng cỏ và lãnh nguyên. Chúng sống phổ biến nhất ở vùng lãnh nguyên và vùng ven biển, hiếm gặp trong môi trường sống cận nhiệt đới và nhiệt đới. Chúng làm tổ trên các vách đá và các kẽ hở. Gần đây, chúng đã bắt đầu xâm chiếm các khu vực đô thị vì các tòa nhà cao tầng thích hợp để làm tổ ở loài này và vì sự phong phú của chim bồ câu là thức ăn. Chúng đã được quan sát thấy sự sinh sản cao tới 3600 mét ở dãy núi Rocky của Bắc Mỹ.

Chim ưng peregrine là một loài chim hoạt động vào ban ngày. Trong thời kỳ không sinh sản, chim ưng peregrine là một loài chim đơn độc, chúng thiết lập và bảo vệ lãnh thổ. Phạm vi lãnh thổ có thể thay đổi tùy thuộc vào sự sẵn có của thực phẩm. Mật độ dân số lớn nhất xảy ra ở các quần thể phía bắc nơi các tổ trung bình cách nhau khoảng 3,3 đến 5,6 km.

Phạm vi lãnh thổ của loài này được ước tính là từ 177 đến 1508 km2. Cả con đực và con cái sẽ thường xuyên săn bắt tới 5 km từ một nơi làm tổ.

Chim ưng Peregrine hình thành liên kết cặp thường kéo dài trong nhiều mùa sinh sản. Cả con đực và con cái đều có sự gắn bó chặt chẽ với các vị trí làm tổ trước đó.

Con đực xuất hiện tại các mỏm đá để thu hút con cái. Trước khi đẻ trứng, cặp đôi này sẽ tham gia vào các màn trình diễn trên không đáng kinh ngạc. Một khi cặp đôi đã hình thành, họ bắt đầu săn bắt hợp tác và con cái bắt đầu cầu xin thức ăn từ con đực.

Con cái thường đẻ trứng vào giữa tháng 5 và chúng thường nở vào giữa tháng 6. Chim ưng Peregrine đẻ một quả trứng cứ sau 48 giờ, với tổng số từ 2 đến 6 quả trứng. Trứng được đặt trong một cái tổ cao trên vách đá, cây cao hoặc nhà cao tầng. Trứng nở sau 33 đến 35 ngày. Chim non học cách bay 35 đến 42 ngày sau khi nở. Thông thường phải mất 3 năm để chim ưng non đến tuổi trưởng thành và có thể sinh sản. Con cái thường sinh sản sớm hơn con đực.

Cả chim bố và chim mẹ đều ấp trứng và chăm sóc chim ưng non. Con cái thường ấp trứng với tỷ lệ thời gian lớn hơn con đực. Chim ưng non được chăm sóc gần như liên tục cho đến khi chúng được 10 ngày tuổi.

Hành vi của Peregrine

Chim ưng Peregrine đã phải chịu đựng do vị trí nguy hiểm của chúng trên đỉnh chuỗi thức ăn. Thuốc trừ sâu tích lũy với số lượng nhỏ (không gây chết người) trong các mô của chim nhỏ và động vật có vú, nhưng trở nên tập trung đủ ở các loài chim săn mồi, như chim ưng, để giết chúng hoặc khiến chúng không có khả năng sinh con.

Thuốc trừ sâu organochlorine (DDT và dieldrin) đã được chứng minh là làm giảm khả năng sản xuất vỏ trứng của chim với hàm lượng canxi đủ, làm cho vỏ trứng mỏng và dễ bị vỡ hơn. Quần thể chim ưng Peregrine giảm nhanh chóng vào giữa thế kỷ 20. Tất cả các cặp sinh sản đã biến mất ở miền đông nước Mỹ. Một chương trình nhân giống và giới thiệu nuôi nhốt thành công, kết hợp với các hạn chế trong sử dụng thuốc trừ sâu, đã là cơ sở của một sự phục hồi đáng kinh ngạc của loài chim ưng peregrine.

Chim ưng ăn gì?

Bây giờ việc sử dụng nhiều hóa chất gây hại nhất cho những con chim này bị hạn chế. Tuy nhiên, nó vẫn chưa bị hạn chế ở Trung và Nam Mỹ nơi có nhiều phân loài xuất hiện trong mùa đông. Sau khi nằm trong danh sách các loài có nguy cơ tuyệt chủng kể từ năm 1969, sự phục hồi đáng kinh ngạc của chim ưng peregrine đã trở thành một ví dụ hoàn hảo về cách bảo tồn hiệu quả của con người.

Trong những năm 1990, chúng đã được đưa ra khỏi danh sách các loài có nguy cơ tuyệt chủng ở Hoa Kỳ. Chúng vẫn được liệt kê là có nguy cơ tuyệt chủng ở bang Michigan.

Sinh sản Tuổi thọ Tình trạng bảo tồn chim ưng Peregrine

Một Số Định Dạng Âm Thanh, Video Phổ Biến

Đuôi file âm thanh

File MP3

MP3 là cụm từ viết tắt của MPEG-1 audio Player 3 hay Motion Pictures Expert Group 1 Layer 3, là một định dạng âm thanh kỹ thuật số được tạo ra bằng cách nén dữ liệu. Trong quá trình nén, các dãy âm thừa, dãy âm quá cao hay quá thấp đều sẽ bị loại bỏ. Do đó, file MP3 có đặc điểm là rất nhẹ, dễ dàng chia sẻ, tải về nhưng chất lượng âm thanh sẽ bị giảm đi nhiều so với âm từ CD hay phòng thu.

Các file nhạc đuôi .mp3 là loại file âm thanh phổ biến nhất hiện nay, có thể dễ dàng tìm kiếm miễn phí trên mạng internet .

File WMA

Tương tự như MP3, WMA là một định dạng âm thanh được tạo ra bằng cách nén và mất đi một phần dữ liệu. WMA là viết tắt của Windows Media Audio được phát triển bởi hãng Microsoft, được xem là đối thủ cạnh tranh của MP3. File WMA có dung lượng thậm chí còn nhẹ hơn MP3 (có thể chỉ bằng một nửa) mà chất lượng thì không hề thua kém.

File WAV

WAV là viết tắt của Waveform Audio File Format, một định dạng âm thanh được phát triển bởi Microsoft và IBM. Nếu như WAM và MP3 là những đuôi file âm thanh đã trải qua quá trình nén và mất dữ liệu, thì WAM là một dạng file âm thanh gốc, không nén. Và do đó, file WAV có chất lượng âm thanh tốt (tương đương nhạc CD) nhưng khá nặng do dung lượng lớn.

File FLAC

FLAC là viết tắt của Free Lossless Audio Codec là một định dạng dùng để nén các dữ liệu âm thanh nhưng không làm mất đi tín hiệu nào. File âm thanh FLAC được giữ lại chất lượng âm tốt, nhưng đã nhẹ đi đáng kể (dung lượng chỉ nhẹ bằng một nửa WAV).

Do đặc điểm chất lượng âm cao mà lại không quá nặng, FLAC vừa thích hợp cho việc nghe nhạc hằng ngày mà cũng thuận tiện cho lưu trữ, nên được nhiều người dùng ưa chuộng.

File AAC

AAC là viết tắt của Advanced Audio Coding, là một định dạng nén âm thanh có làm mất bớt dữ liệu, tương tự MP3. Tuy vậy, file AAC có chất âm tốt hơn MP3, đặc biệt là có thể tích hợp được nhiều kênh âm thanh ở tần số thấp mà có thể file MP3 bị mất.

File OGG

OGG là một file âm thanh nén sử dụng chuẩn nén Ogg Vorbis miễn phí tương tự chuẩn MP3 nhưng cho chất lượng tốt hơn với kích cỡ file tương đương.

File OGG được người dùng đánh giá là nhỉnh hơn so với file MP3, chất âm tốt hơn mặc dù cùng phương pháp nén và dung lượng gần bằng nhau.

File AIFF

AIFF là các file âm thanh chất lượng cao dùng để lưu trữ âm thanh CD. Nó có dung lượng tương đương với file . WAV và thường được dùng trong chép đĩa CD.

Đối với máy tính hệ điều hành Windows các file AIFF thường có phần đuôi .AIF.

File ALAC

ALAC còn gọi là M4A là viết tắt của Apple lossless audio code. Đây là một file nhạc chất lượng cao, được tạo ra bởi phương pháp nén bảo toàn dữ liệu của Apple. Đặc điểm của file ALAC tương tự như file FLAC nhưng không phổ biến bằng.

File AMR

AMR là định dạng âm thanh được sử dụng phổ biến trong các thiết bị âm thanh như: điện thoại, máy nghe nhạc. Định dạng này tối ưu hóa để giải mã giọng nói, được áp dụng cho việc đàm thoại trên điện thoại.

Vào tháng 10/1998 AMR được sử dụng làm codec nói tiêu chuẩn của 3GPP và vẫn đang còn được sử dụng phổ biến trong mạng GSM và UMTS hiện nay.

File Lossless

Lossless là định dạng âm thanh chất lượng cao nhờ sử dụng kỹ thuật nén không mất dữ liệu. Nó sử dụng âm thanh gốc CD sau đó sử dụng các kỹ thuật âm thanh để tạo nén lại với một dung lượng lớn.

Nhờ thế mà chất lượng âm thanh mang lại cao hơn, chân thực hơn và không thua kém gì so với âm thanh gốc từ CD.

File MIDI

MIDI (Musical Instrument Digital Interface) bao gồm tiếng đàn, tiếng sáo, tiếng các bộ gõ và cả tiếng hát tồn tại dưới dạng sóng âm thanh hình SIN. MIDI dùng để trao đổi thông tin biểu diễn giữa các nhạc cụ điện tử hoặc giữa các nhạc cụ điện tử với máy tính.

Nhạc MIDI dùng kỹ thuật số (Digital) để lưu lại âm thanh và được mãhóa dưới dạng nhị phân bao gồm các con số 0 và 1.

Hơn nữa, do chỉ ghi lại bản nhạc mà file MIDI có dung lượng rất nhỏ nên thường được ứng dụng rộng rãi trong các thiết bị điện tử như điện thoại di động, Keyboard, guitar điện, kèn saxophone.

File WMA9

WMA9 (Window Media Audio) được xem là đối thủ cạnh tranh với MP3, ACC do Microsoft phát triển. Đây là chuẩn nén âm thanh với bit rate thấp hơn một nửa nhưng chất lượng tương đương với MP3.

File AAC+

ACC+ là chuẩn âm thanh được nâng cấp từ ACC giúp duy trì chất lượng âm thanh tốt hơn với tốc độ bit nhị phân thấp. ACC+ được tạo nên nhờ sự kết hợp của 2 công nghệ mã hóa là: Advanced Audio Coding (AAC), Spectral Band Replication (SBR).

File AAC++

ACC++ là định dạng âm thanh hiệu suất cao được cải tiến từ định dạng AAC+ với việc được bổ sung thêm công nghệ mã hóa Parametric Stereo (PS) giúp mở rộng việc phân phối các tín hiệu âm thanh đa kênh, nhờ thế mà âm thanh codec được tăng hiệu suất một cách đáng kể.

File eAAC+

eAAC+ sử dụng cho âm thanh stereo tín hiệu hỗ trợ công nghệ Parametric Stereo (PS) và công nghệ nén tiên tiến hơn so với MP3 giúp người dùng có được một chất lượng âm thanh tương tự từ một tập tin nhỏ hơn nhiều.

File AC3

AC3 (Audio Coding 3) được sử dụng hầu hết trên các đĩa DVD giúp mở rộng hệ thống âm thanh vòm. AC3 được tạo ra để tăng độ trung thực so với định dạng trước đó về tiêu chuẩn âm thanh vòm. AC3 cho phép số hóa (coding) âm thanh với tần số thấp hơn (lower sample rate) nhưng vẫn bảo đảm được chất lượng âm thanh.

Hiện nay, AC3 được ứng dụng khá phổ biến trong âm thanh máy tính cũng như trong hầu hết các điện thoại di dộng như nhạc chuông, âm báo cũng được định dạng AC3.

Đuôi file video

File AVI

AVI là tên viết tắt của Audio Video Interleave là một dạng file video được phát triển bởi Microsoft. Đặc điểm của AVI là file không nén, do đó cho chất lượng hình ảnh sắc nét, âm thanh tốt. Tuy nhiên, cũng vì không nén nên file AVI khá nặng và hơi kén chọn thiết bị phát.

File MP4

Tương tự như MP3, MP4 là một định dạng dữ liệu kỹ thuật số được tạo ra bằng cách nén giữ liệu. Do đó, file video MP4 có đặc điểm là nhẹ, dễ sao chép chia sẻ nhưng chất lượng hình ảnh sẽ không tốt bằng file không nén như AVI.

File MKV

MKV là viết tắt của Matroska Video, một loại định dạng đa phương tiện có thể kết hợp âm thanh, video, và phụ đề vào một tập tin duy nhất. Đó là lý do vì sao, khi bạn tải phim từ mạng Internet, các file nhúng sẵn phụ đề thường có định dạng là .mkv.

File phim mkv thường có chất lượng khá tốt, hình ảnh đẹp đồng thời dung lượng cũng không cao, dễ chia sẻ, tải về.

File WMV

WMV là viết tắt của Windows Media Video, là định dạng video phổ biến được phát triển bởi Microsoft và cũng được sử dụng nhiều trên mạng Internet.

WMV là định dạng video có chất lượng hình ảnh tốt lại có ưu điểm là nhẹ, dễ lưu trữ, chia sẻ. Do đó, các file video thường sẽ được chuyển thành đuôi .wmv để up lên mạng dễ dàng hơn.

File VOB

VOB là định dạng video dùng để ghi trên đĩa DVD. Các file được chép ra từ đĩa DVD cũng sẽ có đuôi file là .vob.

File FLV

File FLV (Flash Video) là một định dạng video được phát triển bởi hãng Adobe Systems, với ưu điểm ít tốn băng thông đường truyền nên được sử dụng rộng rãi trên mạng Internet (trên YouTube và nhiều trang web chia sẻ phim, video khác).

File FLV là file đã được nén, do đó chất lượng hình ảnh sẽ không bằng file không nén, nhưng bù lại file nhẹ, dễ tải dễ xem.

File DIvX

DIvX là viết tắt của Digital Video Express, một chuẩn video phổ biến dành cho đầu DVD. DIvX nổi tiếng bởi khả năng nén các đoạn video dài thành các kích cỡ nhỏ trong khi duy trì chất lượng hình ảnh tương đối cao.

File H.265

H.265 hay còn gọi là High Efficiency Video Coding – HEVC được hình thành bởi sự kết hợp giữa ITU-T VCEG và ISO/IEC MPEG giúp cải thiện cách thức thu, nén và phát hình ảnh video chất lượng cao.

Các thử nghiệm cho thấy chuẩn H.265 có khả năng nén video nhanh hơn so với H.264. Bên cạnh đó, chuẩn này còn hỗ trợ nhiều độ phân giải khác nhau và cao nhất lên đến 8192 x 4320, bao gồm cả chất lượng 8k Ultra HD.

File 3GP

3GP được thiết kế để giảm dung lượng và băng thông video sao cho phù hợp với các dòng điện thoại được hỗ trợ. Định dạng này sử dụng chuẩn hình ảnh MPEG-4, H2.263 và âm thanh AMR-NB, AAC-LC.

Đây được xem là bản thu gọn của chuẩn MP4 đang được dùng phổ biến cho hầu hết các điện thoại hiện nay.

File H.263

H.263 được thiết kế cho nhu cầu truyền thông ở tốc độ thấp và được sử dụng rộng rãi trong các ứng dụng Internet hiện nay như: hội nghị, truyền hình, điện thoại video, giám sát.

Thuật toán mã hoá của H.263 cũng tương tự như H.261, chỉ có một vài bổ sung và thay đổi nhằm tăng cường khả năng xử lý và sửa lỗi.

File H.264(MPEG4-AVC)

H.264 còn có tên gọi khác là MPEG-4 Part 10 hoặc AVC (for Advanced Video Coding) cung cấp một chất lượng video cao nhưng ở băng thông thấp nhờ được áp dụng nhiều công nghệ nén tiên tiến như: phán đoán đa hình, phán đoán liên kết.

File WMV9

WMV9 là định dạng video được phát triển bởi hãng phần mềm nổi tiếng Microsoft cho phép mở video có độ phân giải trên 300.000 điểm ảnh và bitrate từ 1000 kbit/s trở lên. Nhờ thế mà chất lượng hình ảnh được sắc nét hơn.

File Xvid

Xvid là một codec do chúng tôi thiết kế được lưu trữ dưới dạng File.AVI.MP4. Định dạng này hỗ trợ các tính năng ưu việt như: khả năng lưu trữ và truyền dữ liệu với tốc độ cao, giữ nguyên chất lượng hình ảnh khi được nén với tỷ lệ cao.

MP1

MP1 là một trong ba định dạng âm thanh trong tiêu chuẩn MPEG-1. Do đã có từ lâu nên tệp âm thanh MP1 có chất lượng nén không cao và không yêu cầu sức mạnh phần cứng lớn. Hiện nay MP1 dù có thể sử dụng ở hầu hết thiết bị nhưng được coi là lỗi thời và được thay thế bằng MP2 và MP3.

MP2

MP2 viết tắc của MPEG-1 Audio Layer II. MP2 là chuẩn phổ biến nhất trong phát thanh, truyền hình kỹ thuật số. Thường được phát bởicác hệ thống truyền hình vệ tinh mặt đất, truyền hình cáp và truyền hình trực tiếp.

MP2 không có khả năng nén tốt như MP3 một tập tin MP2 224Kbps tương đương như tập tin MP3 192Kbps. Tuy nhiên MP2 lại cho khả năng sửa lỗi tốt hơn nên thường được dùng để truyền phát âm thanh.

Siêu thị Điện máy XANH

Một Số Nét Về Loài Chim Yến

Về một số giống loài chim yến Nội dung trong bài viết

Về một số giống loài chim yến

Đời sống tự nhiên của chim yến hàng

Thành phần hoá học cơ bản của tổ yến

Thuộc họ: Apodidae

Giống: Collocalia (tiếngAnh-Swifts)

Loài:

Collocalia fuciphagus (yến tổ trắng, VN-yến hàng)

Collocalia gigas (yến lớn)

Collocalia maxima (yến tổ đen- yến xiêm)

Collocalia brevirostris (yến núi)

Collocalia vanicorensis (yến tổ rêu)

Collocalia esculenta (yến bụng trắng, theo tiếng Indonesia gọi là yến sapi).

Chim yến ( Swiftlet– t iếng Anh) và chim én thường bị lẫn lộn vì chúng đều là những loài chim bay lượn, thích bay lượn trên bầu trời để thăm dò thám thính ở những khoảng cách khá xa, và đều ăn các côn trùng bay.

Về mặt phân loại, nhóm chim yến thuộc họ Apocdidae (theo tiếng la tinh nghĩa là “không chân”), có đặc trưng là chân yếu ớt không thể đậu được nhưng có khả năng bay cao và có thể bay lượn liên tục trong không trung suốt cả ngày. Tổ làm từ nước bọt hoặc thêm các thứ khác như lông, cỏ trộn nước bọt. Cánh uốn cong và đuôi lõm mức vừa phải.

Khác với nhóm trên, loài chim én (chim nhạn – tiếng Anh: Swallows, Martins), cũng thích bay lượn trên trời cao, thuộc hirudinidae thì có chân khoẻ mạnh, có thề đậu xuống trên cây và dây điện, chân có ba ngón phía trước, một ngón phía sau; cánh dài, nhọn, gần như thẳng; lông nói chung có màu xanh dương ngả sang màu đen; tổ làm từ đất sét hoặc cỏ cây.

Tại Indonesia nguời ta đã tìm ra bí quyết nuôi chim yến trong nhà bằng cách nương tựa vào một loài chim mà người Indonesia (Indo.) gọi là chim sriti và nhiều ý kiến cho rằng nó chính là chim “én ” (nên nhiều người ở đây vẫn dùng tiếng Anh là Swallow). Con chim sriti này làm tổ dưới mái nhà, và tổ của nó có thể dùng để ấp nở trứng yến. Trên thực tế nó ở trong cùng họ với chim yến (họ Apodidae), có tên la tinh là Coilocalia linchi (theo Tim Penulis PS). Bởi vì chim con của nó hầu như giống chim yến sapi (C. esculenta). Nhưng lông phân bố trên lưng của cơ thể C. linchi màu đen phớt xanh lục và không có các lông nhỏ ở trên ngón chân cái. Trong khi lông trên cơ thể của chim C. esculenta màu đen phớt xanh dương, và trên ngón chân cái có lông nhỏ.

Ở bắc Kalimantan và Benunnungan Bukit Barisan, loài chim C. linchi sống cùng chỗ với loài C. esculenta. Ở đảo Jawa và Bali, loài C. linchi kiếm mồi cả ở các vùng thấp đến đỉnh núi có độ cao 3000m so với mặt biển. Loài này hay bay lượn gần nhà và thích làm tổ ở trong nhà, dưới mái nhà, nhất là ở vùng Sukabumi. Tổ của nó hình cái bát không đều đặn, tổ được kết bện chặt bằng cỏ nhỏ và nước bọt, kích thước tổ 65,5 x 45 mm, có thể sử dụng để ấp trứng chim yến hàng.

Tổ chim yến núi, yến lớn, yến tổ rêu, yến sapi C. esculenta và cả tổ yến sriti C. linchi đều không thể ăn được, riêng tổ của loài yến xiêm C. maxima thì có thể ăn được nhưng phải nhặt hết lông. Mội số người Indo. còn dùng các tổ yến phẩm chất xấu có trộn nhiều lông để làm thuốc cho ngựa.

Ở VN loài chim này có trọng lượng cơ thể khoảng 12-20gr, làm tổ lần đầu kéo dài 4 tháng, bắt đầu khoảng tháng 12 -tháng 1, tuỳ địa phương và điều kiện khí hậu từng năm. Chim bắt đầu đẻ trứng vào giữa và cuối tháng 3 đến giữa tháng 5 (tùy vùng), có 70% chim tập trung đẻ vào đầu và giữa tháng 4. Nếu bị khai thác lấy tổ thì tiếp tục làm tổ đến khoảng tháng 5-6, còn nếu tổ của chúng không bị lấy đi thì chúng sẽ đẻ lại lần 2 sau khi chim non rời tổ được 5 – 40 ngày, có 30% số chim đẻ lại trong vòng 7-10 ngày. Thòi gian ấp trứng là 23 – 30 ngày, trung bình 25 ± 2. Chim non rời tổ sau khi nở 40 – 45 ngày, trọng lượng cơ thể là 14,5gr. Thức ăn của chim yến hàng chủ yếu là côn trùng: kiến, mối, ruồi muỗi, bọ rầy, các loài cánh cứng và nhộn. Chim trưởng thành ăn chủ yếu là kiến cánh.

Chim non ăn bọ rầy (nâu, xanh) – chiếm 50% và ruồi muỗi chiếm 20%. Trong thức ăn của chim bố mẹ thì bọn cánh màng ( Hymenoptera) chiếm tỷ lệ cao hơn cả. Vào mùa mưa tỷ lệ mối trong ruột là 100% (theo NQP).

Loài này sinh sống nhiều từ vĩ độ 10 o S đến 20°N và kinh độ 95° đến 115° đông, chủ yếu tập trung ở vùng Đông Nam Á, Philippines, Việt Nam, Thailand, Malaysia, Indonesia (Kalimantan, Sumatera, Jawa, Bali…), Campodia.

Ở Việt Nam người ta thấy chim yến hàng làm tổ ở các đảo trong vịnh Hạ Long, Quảng Bình, Đà Nẵng (Cù Lao Chàm), Quảng Ngãi (Sa Huỳnh), Bình Định (bán đảo Phước Mai), Khánh Hòa (10 đảo lớn nhỏ), Phan Rang (Đá Vách), Côn Đảo (10 đảo), Kiên Giang (khoảng 4-5 đảo) (theo NQP).

b/ Loài yến lớn C. gigas là loài chim có cơ thể lớn so với các loài yến khác. Kích thước trung bình của cơ thể khoảng 16cm. Lông chim màu đen, phía dưới màu nâu tối. Lông đuôi chẽ đôi rõ.

Chim thường chỉ đẻ 1 quả trứng, trứng trắng và hình dạng gần như oval. Vào tháng 11-12 yến lớn thường bước vào mùa làm tổ. Phân bố nhiều ở Malaysìa, Sumatera, Kalimanlan và Jawa, thường thấy ở các vùng núi cao rùng rậm.

c/ Loài yến xiêm C. maxima cũng hay làm tổ chung với loài yến hàng, chiều dài trung bình cơ thể là 12,5cm (số liệu Indo.). Lông lưng màu nâu phớt đen, lông ngực màu xám đen và lông đuôi màu nâu phớt cam. Đuôi cũng hơi chẽ đôi. Loài yến này chân có lòng phẳng, mắt nâu đậm, mỏ đen, chân đen. Tổ chim màu đen vì được làm từ lòng đen và nưức bọt của chim kết lại. Tổ yến đen có tới 90% là nước bọt và 10% là lông. Sau khi lựa hết lông ra, tổ chim có thể ăn được. Chất lượng tổ tất nhiên là thấp hơn so với tổ yến hàng. Chim cũng ăn các côn trùng nhỏ và chủ yếu là các côn trùng bay. Chim thích làm tổ trong các khe đá vôi.

Người ta thấy mùa vụ ghép đôi cũng giống chim yến hàng. Trứng màu trắng, thường chỉ đẻ 1 quả. Giống như chim yến hàng, loài yến xiêm cũng dễ nuôi hơn những loài yến khác.

Loài này thường thấy ven bờ biển, làm tổ trong các khe núi đá vôi ở Indonesia, Himalaya, Malaysia, Thailand, Philippines.

Việt Nam cũng có loài yến xiêm, hay cùng làm tổ với yến hàng ở một số đảo vùng Khánh Hoà. Nhưng yến xiêm ở đây có số lượng quá ít, khoảng 90 đôi (186 con – theo NQP), trọng lượng cơ thể từ 12-17 gr.

d/ Yến núi C. brevirostris, lông chim màu đen, đuôi màu xám đen. Lông đuôi chẽ đôi sâu, chân hơi có chút lông hoặc không. Cơ thể hơi lớn, chiều dài trung bình đạt 14cm.

Loài này bay nhanh, thường ghép thành nhóm, hướng đến các vùng cao, đỉnh núi. Ăn các côn trùng nhỏ và cả các côn trùng bay. Tổ của nó làm trong các khe đá, nơi có dấu vết núi lửa và ở các đỉnh núi. Bởi vì tổ của nó làm từ cỏ, chỉ trộn rất ít hoặc không có nước bọt nên loại tổ yến này không thể ãn đươc. Chim có mùa vụ ghép đôi, thường đẻ 2 quả trứng.

Loài chim này thường gặp ở Himalaya, Trung Quốc, Đông Nam Á, Philippines, Andaman, Sumatera, Jawa.

e/ Yến tổ rêu C. vanicorensis, lông chim màu nâu ngã sang màu đen, lòng đuôi tối hơn. Đuôi cũng chỉ hơi lõm vào. Giọng hót ríu rít và cao. Kích thước cơ thể nhỏ, chiều dài cơ thể trung bình khoảng 12cm.

Chim bay mạnh và xa, đôi lúc cũng bay lượn xoay tròn và là thấp xuống gần mặt đất để tìm các côn trùng nhỏ. Tổ đẹp với bề mặt mềm. Rêu tảo được dùng để phủ và bện kết thêm cho đến khi tổ làm xong, nên được gọi là “yến tổ rêu”

Yến tổ rêu thấy nhiều ở Sumarera, Kalimantan, Javva và các vùng tây Thái Bình Dương.

g/ Yến bụng trắng C. esculenta (tiếng Anh là White Billied Swiftlet).

Lông lưng đen phớt xanh dương, lông ngực phớt màu cam tối (màu vàng bí ngô), phần lông bụng trắng hơn, đuôi có chẽ đôi nhỏ. Mắt nâu tối, mỏ đen, chân đen. Giọng hót ríu rít và cao. Đây là loại chim yến nhỏ nhất trong giống yến, có chiều dài cơ thể trung bình khoảng 10cm.

Chim sống cả trên vùng cao nguyên, thích đồng cỏ, rừng cây rộng và thoáng. Loài chim này hay bay thành nhóm nhưng không xếp thứ tự. Chim không bay xa, thường bay thấp hoặc lượn vòng tròn gần trên mặt đất, hoặc mặt nước để tắm và uống nước. Khi tìm kiếm thức ăn thường kêu hót ríu rít dưới các cây lớn có nhiều côn trùng. Hình dạng tổ không đều đặn, được làm từ rêu, cỏ và nước bọt. Tổ làm ở các khe đá, góc khe núi. Chỉ đẻ 2 quả trứng, màu trắng và hầu như hình oval. Chim làm tổ không phụ thuộc vào mùa ghép đôi mà có thể làm tổ kéo dài trong năm. Trong một số tài liệu của Indonesia đây chính là loài để dụ chim yến hàng (nhưng theo phân tích ở trang 2 loài dùng để dụ chim yến hàng là loài C. linchi Tim Penulis PS).

Loài này phân bò nhiều ở Châu Á, Himalaya, Trung Quốc, Papua New Guinea, Đông Nam Á, Australia, Jawa, Rali

Đời sống tự nhiên của chim yến hàng

Loài chim này hay sống quần đàn, thích làm tổ từng cặp riêng rẽ, thích sống ở chỗ gần nước (sông, hồ, biển), có đồng ruộng, rừng cây thấp, và ít đến các khu rừng rậm. Chim yến là loài chim bay lượn cao, nhưng ít khi chúng bay xa đến độ cao 1500m để kiếm mồi (Indo.).

Theo những điều tra của Khánh Hoà, chim yến hàng có thể lên đến Lâm Đồng, Phan Rang để kiếm ăn.

Chim rất thích trú trong các hang động với diện tích rộng. Độ ẩm trong chỗ ở của chúng giao động từ 85 – 95% (đấy cũng là lý do tại sao trong một số điều tra của Khánh Hòa, sản lượng tổ yến của các hang có đáy nước cao hơn hang đáy đá, và có thể gợi ý về việc thử tạo ra một độ ẩm nhất định cho các hang không có đáy nước). Nhiệt độ thích hợp nhất cho yến làm tổ là 25 – 29 o C. Yến thích sống ở chỗ tối, nơi yên tĩnh, cảm giác an toàn, không bẩn thỉu và chứa bầu không khí trong sạch (Indo.).

Chim yến hàng làm tổ trong thời gian lúc trở về nhà đến nửa đêm. Nó không làm một mình mà cả con đực và con cái cùng làm. Công việc xây dựng tổ tiến hành mỗi ngày, kéo dài trong khoảng 40-80 ngày. Nếu thức ăn (côn trùng) nhiều hoặc vào mùa đẻ trứng thì thời gian này chỉ 40 ngày, còn nếu chưa vào mùa đẻ trứng và bị ảnh hưởng của nhiều tác nhân thì thời gian làm tổ có thể kéo dài gấp đôi.

Hình bên cho thấy chu kỳ sống của chim yến: Từ khi mới nở đến khi tập bay và rời tổ khoảng 45 ngày; từ khi bay được đến khi ghép đôi khoảng 30 ngày. Chim bắt đầu làm tổ cho đến khi làm tổ xong là khoảng 40 ngày nếu vào mùa mưa, còn nếu vào mùa khô ráo thì thời gian này mất 80 ngày. Thời gian từ khi làm tổ xong đến khi đẻ trứng là 8 ngày. Bắt cặp giao phối khoảng 5 – 8 ngày. Trứng bắt đầu vào ấp khoảng 7 ngày. Trứng được ấp và nở ra thành chim con trong khoảng 20 – 21 ngày, rồi lại bắt đầu 1 chu kỳ mới.

Chú thích : 1- Chim con mới nở

II – Chim non tập bay rời tổ

III – Chim ở thời kỳ chuẩn bị ghép đôi

IV – Chim bước vào làm tổ

Va – Tổ đã làm xong (vào mùa mưa)

Vb – Tổ đã làm xong (vào mùa khô ráo)

VI- Đẻ trứng

VII- Trứng bắt đầu ấp

Ia – Trứng ấp đã nở ra con

(IIa – Chim con bắt đầu bay rời tổ cho tới khi tổ trống)

Thành phần hoá học cơ bản của tổ yến

Theo phân tích của Departemen Perdagangan R. I, 1979 (Indo.) trong 100g tổ yến chứa

Calori : 281 Calori

Protein : 37,5 gram

Lipit: 0,3 gr

Carbonhydiat: 32,1 gr

Canxi: 485 mg

Phospho: 18 mg

Sắt: 3mg

Nước: 24,8 gr

Theo các phân tích của Nguyễn Quang Phách (1993), hàm lượng protein và lipit có khác nhau theo loại tổ và kỳ khai thác (tính theo % trọng lượng khô). Hàm lượng protein trong kỳ khai thác lần đầu là 47,16%, lần hai là 36,9%; lipit lần đầu là 0%, lần 2 – 0,56%.

Qua các số liệu trên cho thấy, hàm lượng canxi và photpho trong tổ yến rất cao, nguyên tố sắt cũng khá cao. So sánh với tài liệu đã công bố của Indonesia, thì tổ yến của Khánh Hoà có chất lượng rất tốt, hàm lượng protein cao, hàm lượng lipit rất thấp, chỉ từ 0 – 0,56%, lượng nước thấp chỉ khoảng 16 % (so với Indo. Là 24,8%).

Top Các Loài Chim Cảnh Phổ Biến Nhất Việt Nam

Chim Sơn Ca là loài chim được nhiều người chơi chim lựa chọn nhất với giọng hót rất hay trong và cao. Chúng có dáng người nhỏ nhắn, lông màu nâu. Nếu được nuôi dưỡng thuần chủng thì chúng có lông màu nâu vàng rất đẹp. Một điểm nữa khiến nhiều người chọn nuôi chim Sơn Ca là loài chim này khá dễ nuôi, thức ăn của chim thường là sâu, hạt ngũ cốc… Chim Sơn Ca có tập tính bay vút lên cao rồi từ từ hạ cánh, vừa đảo lộn vừa hót trông rất thú vị. Chính vì vậy, nếu bạn muốn nuôi chim Sơn Ca thì cần chuẩn bị một chiếc lồng đủ cao để chim sơn ca có thể bay lượn dễ dàng.

Chim Chích Chòe có dáng nhỏ nhắn nhưng giọng hót rất trong trẻo. Trước khi muốn nuôi chim Chích Chòe bạn cũng nên lưu ý kỹ, bởi chim Chích chòe có tập tính hay hót vào ban trưa lúc 12 giờ và hay hot vào đêm lúc 23 giờ đêm, vì vậy nó có thể gây ảnh hưởng tới bạn khi bạn muốn nghỉ ngơi lúc này. Chim Chích Chòe thường sinh sản vào mùa xuân và kéo dài sang mùa hè trong năm.

Chim Họa Mi là loài chim có giọng hót rất hay, trong trẻo, tiếng hót của chim Họa Mi có thể làm cho người nghe cảm giác dễ chịu, xóa tan căng thẳng, Vì vậy Chim Họa Mi rất thích hợp với những người làm việc với áp lực cao. Dù vậy, chim Họa Mi lại có màu lông không được đẹp lắm. Điểm đặc trưng của Chim Họa mi là mắt có viền màu lam nổi bật khác hẳn với các loài chim khác.

Chim Yến Phụng có dáng Khoằm, sắc nhọn, mắt tròn, to, bộ lông có đủ dạng màu sắc xanh, tím, vàng, trắng. Chim Yến Phụng thường nuôi một cặp nên người chơi cần làm lồng đủ rộng để chim có thể bay lượn dễ dàng. Chim Yến Phụng thích ăn các loại rau cải như xà lách, rau muống. Chim Yến Phụng cũng rất thích tắm, nên người chơi nên thường xuyên vệ sinh cho chim để chim được khỏe mạnh.

Vàng Anh hay còn được gọi là Hoàng Anh là một loài chim rất được giới chơi chim cảnh thích thú. Chim Hoàn Anh có giọng hót khá giống với tiếng chim giẻ cùi nhưng vô cùng thánh thót. Chim trống chủ yếu có bộ lông vàng và đen điển hình, còn chim mái có bộ lông vàng ánh xanh lục. Thức ăn chủ yếu của chim Vàng Anh là côn trùng và hoa quả.

Chim Khướu là loài chim sống chủ yếu tại vùng rừng núi, nên việc sở hữu 1 con chim khướu là vô cùng may mắn. Đa phần chim khướu cảnh tại miền xuôi thường là chim Khướu bồi. Đặc điểm đặc trưng của loài chim này là có bộ lông mềm và xốp như bông.

Cập nhật thông tin chi tiết về Khúc Biến Tấu Của Một Loài Thiên Điểu trên website Raffles.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!