Bạn đang xem bài viết Giáo Chủ Và “Chim Giáo Chủ” được cập nhật mới nhất tháng 11 năm 2023 trên website Raffles.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
An Chi: “Chim giáo chủ” là một cách dùng từ không thích hợp mà cách đây hơn 11 năm chúng tôi đã có nhận xét ngay trên Kiến thức Ngày nay số 382 (ngày 20/3/2001, mục “Chuyện Đông chuyện Tây”). Có người, có lẽ vì mặc nhận rằng “giáo chủ” là một cách gọi không đúng (với lối nói bên Công giáo) nên đã gọi nó là “chim hồng y”, như Minh Long trong bài “Chim hai đầu, ba mỏ” ( chúng tôi , ngày 1/6/2012). Có người còn gọi nó bằng một cái tên “đầy đủ” hơn, là ” chào mào Hồng y giáo chủ “, như Bảo Châu, trong “10 loại chim đẹp nhất hành tinh” trên chúng tôi .
Cardinal là từ chỉ một chức sắc Công giáo trong tiếng Anh, mượn thẳng từ tiếng Pháp trung đại, mà nguyên từ (etymon) là “cardinalis” trong ngữ đoạn “cardinalis sanctæ romanæ Ecclesiæ” của tiếng La Tinh, có nghĩa là “cốt cán của Tòa Thánh La Mã”. Đặc trưng về lễ phục của chức sắc này là màu đỏ thắm nên về sau người ta còn dùng chính từ “cardinal” để chỉ một vài loài động vật hoặc thực vật có màu đó trong tiếng Pháp (có thể hoặc dùng thẳng hoặc làm định ngữ):
– giống chim sẻ lông đỏ (mà ta đang nói đến);
– một giống cá;
– một giống bướm;
– một giống ốc;
– một giống bọ cánh cứng, còn gọi là pyrochre;
– giống hoa dơn (glaïeul) màu đỏ
– giống nho đỏ; v.v…
Trước đây, chức vụ cardinal vẫn được gọi một cách bình thường là “hồng y giáo chủ” trong tiếng Việt. Hồi tháng 4/1955, khi Francis Spellman – kẻ đã kêu gọi chính phủ Hoa Kỳ sử dụng bom nguyên tử ở Việt Nam – đến Sài Gòn để chuẩn bị cho Ngô Đình Diệm về hất cẳng Bảo Đại, thì dân chúng và báo chí ngoài Công giáo vẫn gọi tay này một cách bình thường là “hồng y giáo chủ”. Việt Nam tự điển của Lê Văn Đức (Khai Trí, Sài Gòn, 1970), Từ điển tiếng Việt do Văn Tân chủ biên (NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1967) và Từ điển tiếng Việt của Trung tâm Từ điển học (Vietlex) do Hoàng Phê chủ biên (NXB Đà Nẵng – Vietlex, 2007) đều có ghi nhận mục từ “hồng y giáo chủ”. Đây là một cách gọi hoàn toàn thích hợp. Nhưng nhiều năm gần đây, nhiều tác giả ngoài Công giáo, vì muốn tỏ ra “thức thời” nên đã theo cách nói bên Công giáo mà gọi cardinal là “hồng y” trơn tru và gạt bỏ hai tiếng “giáo chủ”. Họ không biết rằng “hồng y” chỉ là một lối nói mang tính biệt ngữ của Công giáo còn “hồng y giáo chủ” mới là một lối nói của tiếng Việt toàn dân. Cái lý do bên Công giáo mà họ đã nghe theo là: “giáo chủ” cũng là một lối nói để chỉ giáo hoàng (nên không thể gọi “hồng y” thành “giáo chủ”). Nhưng trong tiếng Việt thì hai hình vị “chủ” và “hoàng” khác nhau nhiều lắm.
“Hồng y giáo chủ” thực ra là một lối nói đã cải biên từ mấy tiếng “hồng y chủ giáo” 紅衣主教, mà dân Tàu đã dùng để dịch “cardinal”. “Chủ giáo” 主教 là hai tiếng mà Tàu đã dùng để dịch “bishop” (giám mục) của tiếng Anh. Trong cái cấu trúc này của tiếng Hán thì “chủ” là định ngữ còn bị định ngữ, tức trung tâm, là danh từ “giáo”. Nhiều người Việt Nam không quen với kiểu chuyển loại từ động từ thành danh từ – như trường hợp của từ “giáo” – nên mới đưa “giáo” lên trước làm định ngữ cho “chủ” thành “giáo chủ” vì, theo họ, chỉ có “chủ” mới là danh từ. Nhưng hai lối nói hữu quan chỉ khác nhau về thành phần cấu tạo, cũng như về sắc thái ngữ nghĩa gốc, chứ lối nói của tiếng Việt thì tuyệt đối không sai ngữ pháp (dĩ nhiên là ngữ pháp của tiếng Tàu). Như vậy thì trong tiếng Việt, “giáo chủ” có đồng nghĩa với “giáo hoàng” hay không? Xin thưa rằng tuyệt đối không. Cái lý do đơn giản nhất mà ta có thể đưa ra ngay tức khắc là tiếng Việt văn học và tiếng Việt toàn dân không bao giờ gọi giáo hoàng là “giáo chủ”. Huống chi, trong tâm thức của người Việt thì “chủ” và “hoàng” là hai hình vị khác hẳn nhau. “Chủ” là biến thể ngữ âm hậu kỳ của “chúa” (chúa nhựt = chủ nhật) mà lịch sử Việt Nam thì có một giai đoạn gọi là “vua Lê chúa Trịnh”. Dòng họ Trịnh chỉ kế vị nhau làm “chúa” (chủ); chỉ có người của họ Lê mới làm “hoàng” (đế) mà thôi. Ngôi vị giữa “chủ” (chúa) và “hoàng” cách biệt nhau như thế thì ta tuyệt đối không thể nói rằng “giáo chủ” đồng nghĩa với “giáo hoàng”. Người Công giáo có thể đánh dấu bằng giữa “giáo chủ” và “giáo hoàng”. Đó là chuyện nội bộ của họ. Nhưng ta không thể buộc tiếng Việt toàn dân cũng phải bắt chước mà làm y như họ. Đây là một điều dứt khoát.
A.C
Giáo Điểm Trung Mang, Giáo Phận Đà Nẵng.
Giáo Điểm Trung Mang, Giáo Phận Đà Nẵng.
Trung Mang là địa danh của xã Ba, thuộc huyện Đông Giang tỉnh Quảng Nam. Từ Đà Nẵng lên Trung Mang, du khách phải vượt qua khoảng 60 cây số trên đường tỉnh lộ 14G. Người ta có thể đi theo xa lộ Hoàng Văn Thái khi đến gần Bà Nà thì rẻ trái để vào con đường 14G, tiến lên khu du lịch sinh thái Thần Tài, rồi Suối Hoa…và Lái Thiêu. Hoặc đi theo con đường Túy Loan lên. Sau khi vượt qua con dốc Kiền, quí vị đã bắt đầu đi vào địa giới xã Ba, huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam. Qua khỏi dốc Kiền chừng 4 cây số là chúng ta đến Giáo Điểm Truyền giáo Trung Mang, thuộc xã Ba, huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam. Bên cạnh cung đường miền núi này, du khách sẽ say mê thỏa thích nhìn ngắm những đồi chè Trung Mang thoai thoải, trải dài đến ngút ngàn, giữa núi rừng nguyên sơ, như một bức tranh thiên nhiên thơ mộng và sinh động. Đồi chè Trung Mang thuộc nông trường Quyết Thắng (xã Ba, huyện miền núi Đông Giang). Nơi đây là điểm dừng chân lý tưởng cho du khách để phóng tầm nhìn ngút ngàn tươi mát và say mê săn tìm những bức hình kỷ niệm đầy thơ mộng. Du khách mê du lịch miền núi ngang qua đây không thể bỏ qua những đồi chè Trung Mang xinh tươi này. Nếu du khách qua đây vào đúng dịp những búp chè non vừa nhô lên, hoặc đúng lúc những đóa hoa chè trắng tinh nở rộ, thì chắc chắn đồi chè Trung Mang sẽ làm ngây ngất và say đắm lòng người. Có nhiều bạn trẻ thích chọn nơi này để chụp những bức hình cưới thật lãng mạng và độc đáo, theo phong cách Hàn quốc.
Trung Mang còn nỗi danh về loại chim cảnh “Chào mào Trung Mang”.Chào mào Trung Mang có chất giọng độc đáo mà không có nơi nào sánh kịp.
Khi đến trụ sở UBND xã Ba, chúng ta rẻ vào con hẻm ở bên trái, chừng 50m, là chúng ta đến Giáo điểm truyền giáo Trung Mang. Đây là vùng rừng núi bạt ngàn với khí hậu rất dễ chịu. Những đêm hè nóng bức ở thành phố, nhưng ở Trung Mang người ta phải đắp mền vì lạnh. Giáo điểm truyền giáo Trung Mang do linh mục Giuse Đỗ Xuân Hướng đã kỳ công tạo dựng. Trung Mang là khu sinh sống của đồng bào Cà Tu, nơi đây chưa bao giờ có bóng dáng người Công Giáo, cũng như chưa bao giờ có hình ảnh của ngôi nhà nguyện hay thánh đường. Thế rồi Chúa đã muốn bóng dáng Thánh giá của Ngài phải được vươn cao nơi đây, nên có một số di dân từ các tỉnh phía bắc như Ninh Bình, Nam Định, vào vùng đất này để sinh cơ lập nghiệp như khai thác vàng ( Sông Vàng ), trồng rừng, chăn nuôi…trong số đó có nhiều người Công Giáo. Ban đầu họ tìm đến Giáo xứ Đông Vinh để tham dự thánh lễ các ngày Chúa Nhật và lễ trọng. Từ Trung Mang về Đông Vinh khoảng chừng 20 cây số.
Đông Vinh cách TP Đà Nẵng gần 40km về phía tây. Đông Vinh thuộc thôn Hòa Thọ, xã Hòa Phú, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng, giáp ranh với huyện Đông Giang, của Quảng Nam. Đông Vinh đã có từ rất xa xưa, do một số giáo dân, trốn tránh bách hại, lên trú ẩn nơi thâm sâu cùng cốc này. Trong thời kỳ chiến tranh Việt – Pháp, nhà thờ đã bị phá hủy, giáo dân phải ly tán khắp nơi để tránh bom đạn. Sau khi đất nước hòa bình, giáo dân Đông Vinh mới lần hồi quay về quê Cha đất Tổ là ăn sinh sống, và họ cũng đã góp công góp sức xây dựng lại một ngôi nhà nguyện bé nhỏ, tạm bợ, để có nơi sớm tối đọc kinh cầu nguyện với nhau. Thời trước giáo dân Đông Vinh phải xuống tận Giáo xứ Lệ Sơn để dự lễ Chúa Nhật, lễ trọng. Sau này khi có Giáo xứ Thạch Nham thì Đông Vinh trở thành một Giáo họ của Thạch Nham.
Đầu tháng 9 năm 2010, ĐGM Giáo phận Đà Nẵng, Đức Cha Giuse Châu Ngọc Tri, đã bổ nhiệm Linh mục Jos.M. Đỗ Xuân Hướng, phó xứ Thạch Nham, về làm quản nhiệm ( chuẩn Cha sở ) tiên khởi Giáo họ Đông Vinh. Đến lễ Giáng Sinh năm 2010, Đức Cha Giuse Châu Ngọc Tri đã chính thức trao thẩm quyền quản nhiệm Giáo họ biệp lập Đông Vinh, được tách ra từ giáo xứ Thạch Nham, cho Cha Giuse Đỗ Xuân Hướng. Đông Vinh là một Giáo họ miền núi rừng, xa xôi, hẻo lánh, nghèo nàn, không có bất cứ một cơ sở vật chất nào, nhà thờ tạm bợ bé nhỏ, không nhà xứ, không nơi sinh hoạt … giáo dân lại quá khó nghèo, cuộc sống nương rẫy, trồng trọt, chăn nuôi, cũng chỉ đắp đỗi qua ngày. Tuy nhiên Giáo họ Đông Vinh là một Giáo họ đầy hứa hẹn, vì cánh đồng truyền giáo rất bao la, hai huyện giáp ranh là Đông Giang và Tây Giang thuộc tỉnh Quảng Nam là vùng toàn lương dân, và dân tộc Cà Tu.
Đến năm 2013, kỷ niệm 50 năm thành lập Giáo phận Đà Nẵng, Đức cha Châu Ngọc Tri, Giám mục Giáo phận Đà Nẵng đã nâng những giáo họ biệt lập lên thành giáo xứ để cho giáo phận có đủ 50 giáo xứ, nên giáo họ biệt lập Đông Vinh cũng được nâng thành giáo xứ Đông Vinh, và cha quản nhiệm Giuse Đỗ Xuân Hướng cũng được nâng lên là quản xứ tiên khởi của giáo xứ Đông Vinh.
Kể từ đó Cha Giuse Đỗ Xuân Hướng tìm mọi cách để mở rộng nước Chúa.
Giáo điểm Trung Mang ngày mồng 8 tết Kỷ Hợi – 2023
Duy Trà Phạm Cảnh Đáng
.
Giáo Án Môn Ngữ Văn 11
Giúp học sinh hiểu được:
– Hiểu được bi kịch Chí Phèo và tình cảnh khốn cùng của người nông dân trước cách mạng cũng như sự đồng cảm, trân trọng của nhà văn;
– Giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo sâu sắc, mới mẻ của tác phẩm qua đoạn trích.
– Thấy được một số nét đặc sắc, độc đáo về nghệ thuật của truyện ngắn Nam Cao: Xây dựng nhân vật điển hình, khắc họa nhân vật chủ yếu qua diễn biến tâm lí; dânc chuyện linh hoạt, tự nhiên; ngôn ngữ giản dị, độc đáo.
Rèn cho học sinh kĩ năng tóm tắt tác phẩm tự sự và phân tích văn bản tác phẩm theo đặc trưng thể loại truyện ngắn.
– Bồi đắp tình yêu thương con người, sự cảm thông với số phận của những con người nghèo khổ, bất hạnh.
* Trọng tâm kiến thức tiết 2:
– Bi kịch tự ý thức của nhân vật Chí Phèo:
+ Bi kịch thức tỉnh lương tâm khi gặp gỡ thị Nở
+ Bi kịch bị cự tuyệt làm người và hành động giết Bá Kiến rồi tự sát
– Giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm
– Thành công nội dung và nghệ thuật của tác phẩm.
Tiết 49,50 Đọc văn: CHÍ PHÈO - Nam Cao (Tiết 2) Ngày soạn: 26.10.2010 Ngày giảng: 02.11.2010 A. MỤC TIÊU CẦN ĐẠT Giúp học sinh hiểu được: 1. Kiến thức: - Hiểu được bi kịch Chí Phèo và tình cảnh khốn cùng của người nông dân trước cách mạng cũng như sự đồng cảm, trân trọng của nhà văn; - Giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo sâu sắc, mới mẻ của tác phẩm qua đoạn trích. - Thấy được một số nét đặc sắc, độc đáo về nghệ thuật của truyện ngắn Nam Cao: Xây dựng nhân vật điển hình, khắc họa nhân vật chủ yếu qua diễn biến tâm lí; dânc chuyện linh hoạt, tự nhiên; ngôn ngữ giản dị, độc đáo. 2. Về kĩ năng: Rèn cho học sinh kĩ năng tóm tắt tác phẩm tự sự và phân tích văn bản tác phẩm theo đặc trưng thể loại truyện ngắn. 3. Thái độ: - Bồi đắp tình yêu thương con người, sự cảm thông với số phận của những con người nghèo khổ, bất hạnh. * Trọng tâm kiến thức tiết 2: - Bi kịch tự ý thức của nhân vật Chí Phèo: + Bi kịch thức tỉnh lương tâm khi gặp gỡ thị Nở + Bi kịch bị cự tuyệt làm người và hành động giết Bá Kiến rồi tự sát Giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm Thành công nội dung và nghệ thuật của tác phẩm. II. PHƯƠNG TIỆN THỰC HIỆN SGK, SGV, Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức Ngữ văn 11NC, Thiết kế bài học, các TLTK khác Máy chiếu, tranh ảnh, chân dung Nam Cao, nhân vật Chí Phèo, III. CÁCH THỨC TIẾN HÀNH - IV. TIẾN TRÌNH LÊN LỚP Ổn định tổ chức Lớp 11A3 Vắng:. Kiểm tra bài cũ Bài mới: Hoạt động của GV và HS Nội dung cần đạt KT bổ sung Hoạt động 1: GV HD học sinh tìm hiểu tiếp hình tượng nhân vật CP theo nd tiếp nối từ t1 Khi xd nhân vật Chí Phèo NC làm nổi bật bk Chí trong mối quan hệ với những nhân vật nào? ý nghĩa? - HS: CP - Bá Kiến à Bk bị tha hóa, lưu manh hóa CP - thị Nở - BK thức tỉnh Từ đó em hãy xác định hoàn cảnh tạo nên cuộc gặp gỡ đặc biệt này? GVD: Cuộc đời Chí tưởng chừng chết mòn trong sự ruồng bỏ của đồng loại, trong tăm tối và tội lỗi nhưung vào 1 đêm trăng trong lúc say khướt CP gặp thị Nở một người đàn bà xấu xí, ngẩn ngơ à tạo nên bước ngoặt đầy bất ngờ trong tính cách Chí Phèo Sau trận ốm Chí Phèo có sự biến đổi tâm lí như thế nào? Tìm chi tiết phân tích Chí thấy lòng bâng khuâng, mơ hồ buồn đó chính là sự thức dậy của cảm giác tâm hồn bấ lau nay bị ngủ quên giờ thức tỉnh GVG: Đâu chính là những tiếng gọi của cuộc sống bình dị từng là mơ ước của Chí Phèo. Những âm thanh này hôm nào chả có nhưng với Chí đây là lần đầu tiên Chí cảm thấy è ý nghĩa vô cùng sâu sắc Cuộc sống bình dị có tác động như thế nào đến tâm trạng Chí Phèo? GVG: Uớc mơ t/h nguyện vọng sâu xa nhất của người lao động ở nông thôn: người cày có ruộng nó vẫn vẹn nguyên trong chỗ sâu kín nhất trong tâm hồn Phải chăng đây là lần đầu tiên Chí Phèo nhận thức được hiện thực cuộc đời mình? GVG: Ở đây không chỉ ý thức được hiện tại cuộc đời đáng buồn mà ý thức được cả một tương lai đáng buồn hơn gấp bội. Nếu như bao nhiêu năm nay Chí say thì đây là lần đầu tiên Chí tỉnh táo để ý thức thân phận. Trước đây sống mà hoàn toàn vô thức, Nhưng giờ đây tâm hồn Chí đã hồi sinh sau bao ngày tăm tối. Chí như được sống lại bằng việc cảm nhận được điều bình dị ở cuộc đời này Em có nhận xét gì về nghệ thuật của đoạn văn miêu tả sự thức tỉnh của ChíPhèo? Biến cố tiếp theo nào thúc đẩy sự phát triển trong tâm hồn Chí? Đó là bát cháo hành do người đàn bà xấu xí dở hơi nấu, bát cháo hành của thời kì nghèo đói mang đến cho Chí vì long thương người ốm, vì sự rungđộng mới lạ trong long người đàn bà lần đầu thấy mình có được một người đàn ông Khi thị Nở đến tâm trạng của Chí ntn? Trước đó phải giành giật, ăn cướp, rạch mặt giờ không cần làm gì vẫn được người khác cho, được hưởng sự quan tâm, yêu thương của một con người Tình yêu của thị Nở khơi dậy ở CP cảm giác gì? CP còn nhận ra điều gì như là một khám phá? GV: Xót xa cho thân phận Chí, không có được sự chăm sóc của bất người thân nào (hắn nhận ra rằng: những người suốt đời không ăn cháo hành không biết rằng cháo hành ăn rất ngon. Nhưng sao mãi bây giừo hắn mới được nếm hương vị cháo. Cháo hành mang hương vị tình người, tình yêu thương chân thành. Nó là sự hiện diện của một tấm long tốt có thật và cần thiết biết bao đối với những người lần đầu tiên được đón nhận như Chí à kẻ sinh ra đã bị tước quyền làm người. Câu văn con là lời óan trách sâu sắc nhữngthế lực vô hình đã tước cái quyền được ăn cháo hành của Chí (CP đã tự đốt cháy mình để thắp sáng ngọn lửa khao khát lương thiện Ý nghĩa của chi tiết bát cháo hành Bát cháo hành làm Chí Phèo thay đổi như thế nào từ sinh lí à tâm lí? Với Chí Phèo thị Nở có vai trò và ý nghĩa ntn? Với việc thức tỉnh bản chất lương thiện trong con quỉ dữ Chí Phèo Nam cao muốn khẳng định điều gì? GVG: TY mà thị Nở dành cho Chí Phèo không hẳn là tình yêu giữa 1 người đàn bà với một người đàn ông mà còn là ân tình giữa người với người à giúp Chí phục sinh tâm hồn một cách bẽn lẽn: Chí khao khát và mong được nhận vào cái xã hội bằng phẳng, thân thiện, Chí hi vọng đây là người mở đường cho hắn, cho hi vọng trở lại làm người Vì sao Chí rơi vào bi kịch bị cự tuyệt? Gv: Khao khát làm người lương thiện của Chí mãnh liệt khắc khoải bao nhiêu thì định kiến xã hội dành cho Chí lại tàn nhẫn bấy nhiêu à thứ tội ác ghê gớm chặn đứng hi vọng làm người lương thiện Hiện thực này làm Chí Phèo đau đớn ntn? Bi kịch Chí Phèo đau đớn do đâu? GV: Người cự tuyệt là thị Nở người đàn bà xấu đến ma chê quỉ hờn, đần như người đần trong truyện cổ tích, nghèo khổ, dòng giống mả hủi à nhan sắc, đầu óc đều là con số (-), người làng tránh thị như tránh một conn vật rất tởm. hai con vật tìm đến với nhau nhưng khôngđược xã hội chấp nhận à không ai còn có thể chấp nhận Chí Phèo Em có nhận xét gì về giọt nước mắt của Chí Phèo? Chí khóc tiếng khóc cất lên như xé tan cõn mộng, phá tan cái mông lung mập mờ của một cõi say vô địnhà cảm nhận được nỗi day dứt, uất nghẹn, khóc thương cho sp mình, cuộc tình bạc bẽo, cuộc đời khốn khổ đắng cay, là sự nối tiếp giọt nước mắt lần 1 (thức tỉnh nhân tính). Ta chợt nhậ ra hạnh phúc ở đời không dành sắnc cho những người như Chí Phèo, thị Nở à thông điệp phẫn uất của NC. Em có cảm nhận gì về chi tiết này Ở đây CP tỉnh ngộ ra hai sự thật: muốn làm người lương thiện, không thể làm người lương thiện à đau đớn, tuyệt vọng. Qua chi tiết này NC muốn khẳng định điều gì? Khi nhân phẩm, lương tri đã trở về, Chí không thể quay lại kiếp sống quỉ dữ từ đó kđb/c sức sống lương thiện của con người không gì dập tắt nổi. Vậy thực chất b/c quá trình thức tỉnh của CP ở đây là gì Đây cũng chính là đỉnh cao bi kịch của CP Từ đó Chí Phèo đã có hành động quyết liệt nào? Lần đến nhà Bá Kiến này của Chí Phèo có khác những lần trước đó không? GV; l1: k/v trả thù à xoa dịu; l2: k/v muốn có cơm để mà ăn; l3: đòi lương thiện t/h khát vọng làm người tha thiết Em có nhận xét gì về lời CP nói với BK? Cả đời CP chưa bao giờ dõng dạc như thế, dứt khóat như thế, kiêu hãnh và tự tin như thế. Phải chăng anh canh điền 20 tuổi khỏe mạnh và đầy tự tin đã trở về, trở về để đòi lại thứ quí giá nhất của cđ mình. Muộn rồi CP không thể làm người lương thiện được nữa. Vì sao? (Định kiến xã hội, bộ mặt con vật của Chí) à tuyệt vọng. Chí Phèo tự bạch k/v lương thiện dữ dội. Hành động CP lựa chọn là gì? Có con đường nào khác cho Chí lựa chọn không? GV: Không còn con đường nào khác Chí có thể lựa chọn: Trước đây để tồn tại về thân xác Chí phải bán linh hồn cho quỉ dữ giờ đây lương tri trở về Chí lại phải thủ tiêu c/s. Em hãy nêu ý nghĩa cái chết của Chí Phèo? Thương thay cho Chí Phèo đau khổ cả một đời đến lúac chất vẫn chưa hết khổ, cái chết thật thê thảm "giãy đành đạch giũa bao nhiêu là máu tươi, mắt trợn ngược, mồm ngáp ngáp nhưng không ra tiếngà đầy uất ức "Ai cho tao lương thiện" Câu hỏi ấy ngàn đời còn vang lên. Chí vẫn còn muốn hỏi, những kẻ đã đầy đọa, bóp nát đời Chí GV: Người ta trách anh quá tầm thường đi bán linh hồn để mua lấy vài hào rượu cuối cùng bán sự sống để mua sự sống, bán đời lương thiện để mua đời lương thiện. và vì thế CP đã lương thiện ngay từ ngày ấy Bi kịch đã thực sự kết thúc sau cái chết của Chí Phèo chưa? Em nghĩ gì về chi tiết kết thúc tác phẩm GV chiếu sơ đồ hóa hiện tượng qui luật này Từ bi kịch của Chí Phèo em hãy xác định gía trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm (t/h sâu sắc qua bi kịch tha hóa lưu manh hóa, bi kịch bị sự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo). (t/h trong mối quan hệ của Chí Phèo với bá Kiến và mối quan hệ với thị Nở) Em hãy tổng kết các giá trị đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của ăn bản Về nghệ thuật? Về nội dung (Ý nghĩa văn bản)? I II Hình ảnh làng Vũ Đại Nhân vạt Chí Phèo a. b. c.Quá trình thức tỉnh: - hoàn cảnh thức tỉnh: cuộc gặp gõa thị Nở vào 1 đêm trăng say khướt à gặp thị Nở à trận ốmà thức tỉnh * Sau trận ốm: + thấy tỉnh + miệng đắng, long mơ hồ buồn + người bủn rủn, chân tay không buồn nhấc è cảm giác rất thực của con người sau trận ốm à tỉnh rượu + Cảm nhận được cuộc sống xq thật giản dị: tiếng chim hót vui vẻ, tiếng cười nói của những người đi chợ, anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá à tiếng gọi của sự sống, của cđ lương thiện vang vọng sâu xa trong tâm hồn Chí. + Nhận thức lại mình Quá khứ; ước mơ giản dị: "Chồng cày thuê,.. Hiện tại: Buồn và cô độc Tương lai: tuổi già à đói rét, ốm đau nhưng sợ nhất vẫn là cô độc è Chí nhận ra tình trạng tuyệt vọng của thân phận mình(tự nhận thức, tự thấy sự hiện hữu của mình, đối mặt với chính mình) è Nhà văn NC đã đi sâu vào tâm hồn con người để khám phá những biến cố tinh vi một cách chân thực và cảm động. * Tâm trạng Chí khi nhận bát cháo hành của thị Nở - Ngạc nhiên, mắt ươn ướt à vì lần đầu tiên hắn được một người đàn bà cho(cảm động, hạnh phúc) - lòng bâng khuâng à xúc động trước tình người cuả thị Nở, nhen nhóm tình yêu với thị Nở. - Cảm giác ăn năn, hối lỗi - Nhận thấy cháo hành ăn rất ngon à là biểu hiện của tình người giúp CP giải cảm, hồi sinh tâm hồn. + Nhớ lại người đàn bà đầu tiên trong đời + lo lắng cho tương lai à khao khát làm người lương thiện, muốn được làm hòa với mọi người, tin vào thị Nở è Thị Nở chính là cầu nối, là niềm hy vọng, chinh stình yêu mộc mạc chân thành đã thức tỉnh bản chất lương thiện của Chí Phèo è Nhà văn đã phát hiện và khẳng định nhân phẩm đẹp đẽ của người nông dân ngay cả khi họ bị cướp đi bộ mặt người, hồn người. * Khi bị thị Nở cự tuyệt: - Nguyên do: Baø coâ Thò Nôû khoâng cho Thò laáy Chí Pheøo, ñaáy cuõng chính laø ñònh kieán cuûa xaõ hoäi ñoái vôùi Chíà caùnh cöûa trôû laïi laøm ngöôøi löông thieän ñoùng saäp laïià Chí maõi maõi laø con quyû döõ cuûa laøng Vuõ Ñaïi - Tâm trạng, hành động: Hắn bỗng nhiên ngẩn người. Như hít thấy hơi cháo hành Ngẩn mặt, không nói gì Sửng sốt, đứng lên gọi lại Níu tay Thị Nở à khao khát được bấu víu Laïi uoáng röôïu.Haén caøng uoáng caøng tænh Cöù thoaûng thaáy muøi chaùo haønh à bi kịch Cöù oâm maët khoùc röng röùc à tuyệt vọng Giọt nước mắt: + l1: thức tỉnh, cảm động L2: thức tỉnh à tuyệt vọng tột cùng Càng uống càng tỉnhà thức tỉnh lương tri trọn vẹn è Đau đớn, quằn quại khi nhận ra bi kịch của mình (Thöùc tænh à hi voïng à thaát voïng à ñau ñôùn à phaãn uaátà tuyeät voïng (bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người). Nghệ thuật: Miêu tả diến biến tâm lí tinh tế qua nghệ thuật trần thật linh hoạt, đa giọng điệu, * Hành động giết Bá Kiến rồi tự sát Tâm trạng phẫn uất tuyệt vọng à xách dao đi (say rượu nhưng lí trí tỉnh táo à đến nhà Bá Kiến Mục đích: đòi lương thiệnà lời nói dõng dạc " Tao muốn làm người lương thiện Nhận ra bi kịch đau đớn:" Không được ai cho tao lương thiện" à Tiếng kêu cứu tuyệt vọng - Chí Pheøo ñaâm cheát Baù Kieán à Hành động lấy máu rửa thù của người nông dân thức tỉnh quyền sống Chí Phèo tự sátà Sự cùng đường bế tắc è Sự thức tỉnh toàn diện về mặt nhân cách _ Cái chết của Chí Phèo là lời tố cáo sâu sắc, vừa rung lên tiếng chuông đòi quyền làm người của những con người bất hạnh. * Hình ảnh kết thúc tác phẩm: - Cả làng Vũ Đại nhao lên à Không khí ngột ngạt, đen tối của xã hội nông thôn trước cách mạng với những mâu thuẫn không thể điều hòa - Hinh ảnh Thị Nở nhìn xuống bụng mình thoáng nghĩ đến cái lò gạch cũ bỏ không à Nhấn mạnh tính quy luật của hiện tượng Chí Phèo à giá trị tố cáo và thương cảm sâu sắc. 3. Giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm a. Hiện thực Tác phẩm là bức tranh thu nhỏ về nông thôn Việt Nam trong xã hội cũ, phản ánh chân thực mối quan hệ người bóc lột người không chỉ đẩy người nông dân nghèo lương thiện vào sự bần cùng hoá, lưu manh hoá mà còn đẩy họ vào cái chết. b. Nhân đạo III. Tổng kết 1.Giá trị nghệ thuật - Kết cấu truyện độc đáo, ấn tượng (mở đầu bằng tiếng chửi, cơn say, kết thúc bằng cái chết) - Xây dựng nhân vật điển hình xuất sắc (Bá Kiến - Chí Phèo) bằng lời kể lời tả, lời độc thoại nội tâm, ngôn ngữ biến hoá giàu chất đời sống tạo ấn tượng sâu sắc trong lòng người - Lách sâu vào nỗi đau thân phận của Chí Phèo, miêu tả một cách chân thực và tài hoa tâm trạng tuyệt vọng: ngẩn người, nức kéo, tìm vào rượu nhưng càng uống càng tỉnh, tâm trạng của con người vừa ý thức vừa ra mình ... - Lối viết phục bút, chuẩn bị cho hành động vùng lên giết Bá Kiến - Ngôn ngữ biến hoá, giàu chất đời sống. 2. Nội dung Chí Phèo tố cáo mạnh mẽ, sâu sắc xã hội phong kiến nửa thuộc địa tàn ạo đã cướp đi cả nhân hình, và nhân tính của người nông dân lương thiện đồng thời nhà văn cũng phát hiện và khẳng định bản chất tốt đẹp của con người ngay cả khi tưởng như họ đã biến thành quỉ dữ. IV. Luyện tập - Củng cố Câu 1: Cuộc tình Chí Phèo - Thị Nở có ý nghĩa nhất là làm cho Chí Phèo: A. Tỉnh rượu B. Có ước mơ về một gia đình nho nhỏ, hạnh phúc C.Tỉnh ngộ Câu 2: Câu 2: Bà cô Thị Nở là đại diện cho: A. Định kiến của dân làng Vũ Đại, định kiến xã hội B. Người phụ nữ ích kỉ, không muốn nhìn người ta hạnh phúc Câu 3: Khi bị Thị Nở từ chối, Chí "ôm mặt khóc rưng rức", tiếng khóc ấy là biểu hiện của: A. Sự căm phẫn B. Sự tuyệt vọng C. Không thể say được Câu 4: Để được làm người lương thiện, Chí Phèo giết Bá Kiến rồi tự sát: A. Chí còn có thể có cách lực chọn khác B. Đây là cách giải quyết duy nhất của bi kịch Câu 5: Đặc điểm nghệ thuật không có trong tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao: A. Sở trường miêu tả, phân tích tâm lý nhân vật B. Xây dựng nhân vật điển hình C. Tính chất trào phúng, mỉa mai, châm biếm Câu 6: Chí Phèo là kiệt tác của văn xuôi Việt Nam hiện đại bởi: A. Tác phẩm đã xây dựng được chuyện tình kì dị lạ thường, một chân dung thắng say rượu có một không hai B. Vạch trần mâu thuẫn giai cấp ở nông thôn, tình trạng tha hoá của người nông thôn, đồng thời thể hiện lòng tin vào bản chất tốt đẹp của người nông dân - Hướng dẫn tự học + Cảm nhận về nhân vật Bá Kiến +Chiều sâu nhân đạo của Nam Cao qua nhân vật thị Nở + Làm rõ sự độc đáo trong cách mở đầu và kết thức truyện Chí Phèo. Bài tập về nhà C©u 1 Nhµ v¨n NguyÔn Minh Ch©u cã nhËn xÐt vÒ Nam Cao b"ng mét c©u: "C¶ cuéc ®êi chÝnh m×nh vµ c¸c nh©n vËt cña m×nh ®Çy rãng riÕt còng chÝnh lµ s¨n ®uæi c¸i nh©n c¸ch cña con ngêi nãi chung". Em cã suy nghÜ g× vÒ c©u nãi nµy khi häc xong t¸c phÈm §êi thõa vµ ChÝ PhÌo? Câu 2: Nếu phải viết đoạn kết khác cho Chí Phèo em sẽ viết như thế nào?Giáo An Tiết Dạy Âm Nhạc
– Chào mừng các con đến với chương trình âm nhạc “Giọng hót chim họa mi ” ngày hôm nay
Đến với chương trình âm nhạc hôm nay có 3 đội chơi!
+ Đội chơi thứ nhất: Chim Vành khuyên
+ Đội chơi thứ hai: Chim Họa mi
+ Đội chơi thứ ba: Chim Sơn Ca
– Màn chào hỏi rất là thú vị phải không nào! Xin một chàng pháo tay thật to dành cho các đội chơi!
– Với chương trình hôm nay gồm có 3 phần chơi
– Cô h át mẫu lần 1: Không dùng đàn, hát đúng nhạc, rõ lời kết hợp cử chỉ điệu bộ.
– Cô vừa hát cho các con nghe bài hát “Con chim non” sáng tác nhạc sỹ Lý trọng đấy
– Cô h át mẫu lần 2: Cô hát có kết hợp nhạc , làm động tác minh họa
– Cô vừa hát cho các con nghe bài hát gì nào? Do ai sáng tác
* Giảng nội dung bài hát : Bài hát nói về 1 loài không chỉ biết bay mà còn biết hót rất hay cho vạn vật nghe khi nghe thấy tiếng chim chúng ta sẽ thêm yêu cuộc sống và yêu những loài chim hơn đó
– C ô chú ý lắng nghe, sửa sai cho trẻ
– Cô mời đội ” Chim Vành Khuyên ” lên biểu diễn nào?
– Xin mời đội ” Chim Họa Mi“ lên biểu diễn nào?
– Cô mời mỗi đội đại diện 1 bạn lên biểu diễn nào?
+ Cô mời đại diện các bạn trai nào?
+ Cô mời đại diện là các bạn gái nào!
– Cô chú ý sửa sai cho trẻ
– Cô mời 1 bạn lên hát nào
– Hãy nổ 1 chàng pháo tay thật to cho bạn nào
– Các đội đã hoàn thành rất xuất sắc phần chơi thứ nhất một chàng pháo tay dành cho các đội chơi nào!
* Phần chơi thứ hai “Giai điệu vui nhộn”
Trải qua phần chơi thứ nhất cô thấy các đội tham gia rât nhiệt tình vì vậy ở phần chơi thứ hai ngày hôm nay cô sẽ thửởng cho cả lớp một bài hát có giai điệu rất hay
– Bài hát mang tên gọi “Chim Bay ” dân ca liên khu V theo điệu lý thương nhau đấy các con ạ
– Cô hát cho trẻ nghe lần 1 kết hợp động tác cử chỉ điệu bộ
– Cô hát lần 2: Kết hợp với nhạc và làm động tác minh họa
– Giảng nội dung bài hát: Cô vừa hát cho các con nghe bài hát “Chim bay” làn điệu dân ca liên khu V theo điệu lý thương nhau có giai điệu rất nhẹ nhàng, bài hát nói về loại chim hót rất hay vì vậy khi nghe chim hót ai cũng yêu mến loài chim đó.
– Lần 3: Cô hát, kết hợp múa minh họa khuyến khích trẻ hưởng ứng múa cùng cô
Xin chúc mừng các đội là trải qua phần chơi thứ hai ngày hôm nay
Trời tối, trời sáng rồi
– Sau một giấc ngủ dậy
– Sau một giấc ngủ dài các con đã tỉnh táo hơn sau đây cô xúc sắc mang đến cho các con 1 trò chơi đấy!
– Trò chơi mang tên gọi ” Nhìn tranh vẽ đoán tên bài hát”
– Luật chơi: Nếu đội nào dung nhanh sẽ được quyền trả lời, nếu đội dung xúc sắc chưa nhanh sẽ không đựợc quyền trả lời
– Các đội đã sẵn sàng chơi chưa nào!
– Các con rất giỏi
+ Bây giờ chúng ta sẽ bắt đầu vào cuộc chơi một lần nữa cô hỏi các con đã sẵn sàng chơi chưa nào!
– Cô cho trẻ chơi 1-2 lần
– Cô cho từng đội chơi dành quyền trả lời hát biểu diễn trên sân khấu
– Cô khen gợi trẻ
Các con ơi hôm nay cô thấy các con chơi rất xuất sắc trong ba phần chơi của mình xin chúc mừng ba đội chơi 1 chàng pháo tay thật to nào!
Biểu Tượng Của Các Con Vật Trong Phật Giáo
Theo giáo lý Phật giáo, sự tồn tại của bất kỳ hiện tượng nào đều tùy thuộc vào ý nghĩa bên trong của nó
Trong văn hóa Á châu, không có khoảng cách lớn giữa những thứ thuộc vật chất và những điều thuộc tinh thần, điều dường như tồn tại ở văn minh phương Tây ngày này. Vì vậy, những biểu tượng tôn giáo là một phần sinh động của tổng thể văn hóa Á châu.
Chúng ta sẽ miêu tả những biểu tượng khác nhau cả ở ý nghĩa bên ngoài và ý nghĩa bên trong hay ý nghĩa ẩn sâu của chúng, theo những giáo thuyết khác nhau của Đức Phật. Tuy nhiên, theo giáo lý Phật giáo, sự tồn tại của bất kỳ hiện tượng nào đều tùy thuộc vào ý nghĩa bên trong của nó, điều có mặt do sự tạo tác của tâm thức hay hành nghiệp của chúng sanh. Điều này muốn nói rằng những biểu tượng tồn tại là do sự tạo tác của tâm hay hành nghiệp của những chúng sanh đó và không thể tồn tại mà không có nó. Giống như một cái cây cần một hạt giống để hiện hữu, theo đó cái cây như là một biểu tượng tồn tại chỉ bởi vì có một nghiệp chủng tạo nên nó.
Thực tế, sự hiện hữu của một cái cây vật lý cũng tùy thuộc vào sự hiện hữu của một chủng nghiệp ở nơi tâm thức của các sinh vật trong thế giới tổng thể mà cái cây đó sinh trưởng. Do đó, những gì chúng ta gọi là những biểu tượng không phải là những sáng tạo văn hóa của con người, mà chúng tương ứng với một hành nghiệp thực sự biểu hiện ở bề mặt bên ngoài như là một đối tượng vật chất-một cái cây hay một con thú ở trong trường hợp đó-và ở bề mặt tâm thức hay bên trong tương ứng với một kinh nghiệm tâm thức. Thực tại chân thực của những biểu tượng này được những bậc thánh giả nhận chân trực tiếp ở trong thiền định. Bằng cách này hay cách khác họ đã khám phá ra bản chất thật của các biểu tượng thông qua cái nhìn và sự hiểu biết sáng rõ của mình. Ngay cả những người bình thường cũng có thể lĩnh hội được chừng mực nào đó bản chất thật của các biểu tượng, nhưng để có được sự hiểu biết rõ ràng thì phải cần đến một vài giảng giải mang tính trí thức.
Thông thường, những biểu tượng của Phật giáo hay những biểu tượng của những tôn giáo khác được xem như là một vấn đề văn hóa, và ta hoàn toàn không hiểu hết được ý nghĩa thật của chúng. Chúng được sử dụng hay tôn kính chỉ bởi vì nó là truyền thống, hay bởi vì người ta tin rằng những biểu tượng hay đối tượng này mang đến những điều tốt lành và thịnh vượng… Trong bài viết này, tôi chỉ trình bày vắn tắt về năm loài thú.
SƯ TỬ
Sư tử là vua của loài thú: chúng kiêu hãnh và oai vệ. Chúng sống ở những khu vực bằng phẳng hay những đồi cỏ, không bao giờ ở trên núi và chắc chắn không ở trên những ngọn núi cao tuyết phủ. Sư tử tập hợp thành từng bầy, nhóm và không bao giờ sống đơn lẻ ngoại trừ trường hợp những con sư tử già hay những con sư tử bị bầy đàn của nó xua đuổi. Chúng kiếm thức ăn bằng việc săn mồi, điều luôn được những con sư tử cái thực hiện; những con đực thì không bao giờ làm việc đó. Công việc chính của sư tử đực là bảo vệ bầy đàn của nó tránh khỏi sự tấn công của kẻ thù. Tuy nhiên, sư tử thì không có kẻ thù tự nhiên nào hết. Do những đặc tính này, ở mọi thời và mọi xứ, sư tử được xem như là biểu tượng của sự quý phái và bảo vệ, cũng như biểu tượng của trí tuệ và kiêu hãnh. Sự miêu tả bằng tranh về sư tử có nguồn gốc ở Ba Tư (Persia).
Trong Phật giáo, sư tử là biểu tượng của chư Bồ-tát, “những người con trai của Đức Phật”. Chư Bồ-tát là những người đã đạt được giác ngộ. Họ phát khởi tâm Bồ-đề và thệ nguyện từ bỏ hạnh phúc an trú trong Niết-bàn, chấp nhận ở lại thế gian này hóa độ cho đến khi tất cả chúng sanh thoát khỏi khổ đau. Chư Bồ-tát thực hành sáu ba-la-mật: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí tuệ (dana, sila, ksanti, verya, dhyana và prajna); và bốn điều mà chúng xuất phát từ sáu ba-la-mật trên: phương tiện thiện xảo, thệ nguyện, sức mạnh và trí tuệ (upaya, pranidhana, bala và jnana).
Trong nghệ thuật tranh tượng Phật giáo, chúng ta thấy những con sư tử trong vai trò là những kẻ bảo hộ Pháp đang nâng tòa ngồi của chư Phật và chư Bồ-tát. Chúng cũng được nhìn thấy ở nơi lối vào của các chùa chiền. Ở những khu vực miền Bắc Nepal, do ảnh hưởng nghệ thuật và Phật giáo Tây Tạng, những con sư tử đã trở thành những “sư tử tuyết”. Trên thực tế, không có con sư tử nào sống ở những núi tuyết, mà chỉ có những con báo. Sư tử tuyết được mô tả bằng màu trắng hay xanh dương với cái bờm màu cam hay màu ngọc lam đang đi nổi trên gió và rất hung dữ, với đôi mắt mở to và miệng hả rộng. Chúng tự do đi lại trên những ngọn núi tuyết cao mà không có bất kỳ nỗi sợ hãi nào, biểu trưng cho trí tuệ, vô uý và siêu phàm của những hành giả thực hành pháp mà họ có thể sống tự do tự tại nơi ngọn núi tuyết cao của tâm thức thuần tịnh, không bị ô nhiễm bởi vô minh ảo giác. Họ là những vị vua của Pháp (dhamma) bởi vì họ đạt được sức mạnh chinh phục chúng sanh với đại bi và đại trí của họ.
VOI
Đặc tính chính của voi là sức mạnh và tính kiên định của nó. Vì vậy nó trở thành biểu tượng của sức mạnh vật lý và tâm thức, cũng như trách nhiệm và tính chân chất.
Trong thần thoại Ấn Độ, chúng ta nghe nói về những con voi bay và voi Airavata – con voi trắng mà nó trở thành vật cỡi của Thần Indra và xuất hiện từ nơi khuấy biển sửa. Do đó voi trắng được xem là có sức mạnh đặc biệt có thể tạo nên mưa. Trong xã hội Ấn Độ, voi được xem như vật mang đến điều tốt lành và thịnh vượng. Các vị vua sở hữu chúng và sử dụng chúng trong chiến tranh.
Trong Phật giáo, voi là một biểu tượng của sức mạnh tâm thức. Vào khởi đầu của việc tu tập, tâm thức chưa được kiểm soát được tượng trưng bằng một con voi xám có thể chạy hoang bất cứ lúc nào và phá huỷ mọi thứ trên đường. Sau khi thực hành pháp và tu tập, tâm bây giờ đã được kiểm soát, lại được tượng trưng bằng một con voi trắng mạnh mẽ và hùng dũng, có thể đi đến bất cứ nơi đâu nó muốn và huỷ diệt tất cả những chướng ngại ở trên đường.
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni trong những tiền kiếp của mình đã sinh làm voi. Và vào kiếp sau cùng của mình, từ cõi trời Đâu Suất, đã nhập vào thai tạng của mẹ mình trong hình thức một con voi trắng.
Trong nghệ thuật tranh tượng Ấn giáo, ta thấy vị thần đầu voi Gangpati hay Ganesh. Ở khía cạnh khác, tượng trưng cho phương diện thế tục của sức mạnh ấy, voi bị những vị thần khác như Mahakala, Vajra Bhairava dẫm lên trên.
Trong nghi lễ cúng mandala, người ta dâng lên Đức Phật con voi quý, với sức mạnh của một ngàn con voi và nó có thể đi vòng quanh vũ trụ ba lần một ngày. Ngà của voi cũng là một trong bảy biểu tượng của vua chúa.
Voi là phương tiện đi lại của A Súc Bệ Phật (Aksobhya) và nữ thần Balabadra. Voi cũng xuất hiện như một kẻ canh gác các ngôi đền và cả bảo vệ Đức Phật.
NGỰA
Ngựa là phương tiện của vận chuyển. Chúng có thể chạy rất nhanh và chính vì vậy mà trước đây chúng được chắp thêm cánh và có thể bay. Ngay ở trong thần thoại Hy Lạp chúng ta có Pegasus, con ngựa bay. Những đặc tính chính của chúng là lòng trung thành, cần cù và nhanh nhẹn. Một ví dụ điển hình về những phẩm tính này là Kantaka, con ngựa của thái tử Siddhartha Gautama. Khi thái tử rời hoàng cung xuất gia làm ẩn sĩ, con ngựa của ngài nhận thấy rằng nó sẽ không bao giờ còn gặp lại chủ nhân của mình nữa nên đã vỡ tim mà chết. Nó sau đó đã sanh về một trong các cõi trời.
Trong Phật giáo, ngựa là biểu tượng của sức mạnh và sự nỗ lực trong việc thực hành pháp. Nó cũng tượng trưng cho khí (prana) mà nó chạy xuyên khắp cơ thể và là phương tiện di chuyển của tâm.
Cái được gọi là “ngựa gió” là biểu tượng của tâm. Tâm có phương tiện đi lại của nó là gió, và nó có thể được cưỡi đi. Điều đó muốn nói rằng chúng ta có khả năng kiểm soát tâm và gió và hướng dẫn chúng theo bất kỳ chiều hướng nào và ở bất kỳ tốc độ nào mà chúng ta muốn.
Tiếng hí của một con ngựa cũng là biểu tượng sức mạnh của Đức Phật để đánh thức tâm ngái ngủ trong việc thực hành pháp.
Có một vài câu chuyện về Bồ-tát Lokesvara hóa thành hình thù một con ngựa để cứu giúp chúng sanh.
Trong nghệ thuật tranh tượng Phật giáo, ngựa nâng đỡ tòa ngồi của Bảo Sinh Phật
(Ratnasambhava). Ngựa cũng là phương tiện của nhiều vị thần khác và những vị hộ pháp, chẳng hạn như Mahali; và có những vị thần mặt ngựa chẳng hạn như Hayagriva.
CÔNG
Trong ý nghĩa chung, công là biểu tượng của sự cởi mở và chấp nhận. Trong Thiên Chúa giáo, công là biểu tượng của sự bất tử. Ở vùng Lưỡng Hà (Mesopotamia), có việc diễn đạt mang tính biểu tượng về một cái cây có hai con công đứng hai bên, mà nó được nói là biểu tượng cho tâm nhị nguyên và sự hợp nhất tuyệt đối. Trong Ấn giáo, những hoa văn của lông công tượng trưng cho những con mắt, hay tượng trưng các ngôi sao. Trong Phật giáo, chúng tượng trưng cho trí tuệ.
Công được cho có khả năng ăn những cây có độc dược mà không hề bị ảnh hưởng gì. Bởi điều đó, chúng được ví với những vị Đại Bồ-tát. Một vị Đại Bồ-tát có thể xem những thứ nhiễm ô như là phương cách đưa đến giải thoát và chuyển đổi tâm độc hại tham-sân-si (moha, raga, dvesa) thành tâm giác ngộ hay bồ-đề.
Tâm của chúng sanh ở thế giới này giống như một khu rừng rậm của tham muốn và sân hận. Những lạc thú và tài sản vật chất thì giống như một khu vườn thuốc xinh đẹp. Những vị Bồ-tát với tâm dũng mãnh, giống như những con công không bị những cây thuốc hấp dẫn. Chư Bồ-tát, với mong muốn làm việc vì lợi ích của chúng sanh và không mong muốn bất kỳ hạnh phúc nào cho riêng họ, có thể sử dụng những tâm độc hại tham-sân-si… để thực hiện những công việc vì lợi ích của chúng sanh.
Bằng việc ăn độc dược, cơ thể của công trở nên đẹp đẽ và mạnh khoẻ. Chúng được tô điểm với năm lông vũ trên đầu, mà nó biểu trưng cho năm con đường của Bồ-tát và ngũ phương Phật. Chúng có màu sắc xinh đẹp, như màu xanh da trời, đỏ, xanh lá cây và làm cho những sinh vật khác thích thú khi nhìn chúng. Tương tự, bất kỳ những ai nhìn thấy một vị Bồ-tát đều nhận được sự hoan hỷ ở trong tâm. Thói quen ăn những cây độc của công không gây hại cho những sinh vật khác. Tương tự, Bồ-tát không đem lại sự tổn hại nhỏ nhất cho bất kỳ chúng sanh nào. Bằng việc ăn những độc dược, lông của công trở nên sáng tươi và thân thể khoẻ mạnh. Tương tự, bằng việc nhận tất cả những khó khăn và rắc rối cho mình, chư Bồ-tát nhanh chóng gột sách những chướng ngại tâm thức và phát triển tâm thức nhanh chóng, đạt được trí tuệ càng lúc càng cao. Đặc biệt, công tượng trưng cho sự chuyển hóa tham dục thành giải thoát. Do đó chúng là phương tiện đi lại của Phật A Di Đà, người thể hiện chuyển đổi tham muốn và chấp thủ thành trí tuệ.
CHIM ƯNG
Chim ưng (raguda) là vua của loài chim. Tên của nó xuất phát từ gốc “gri”, có nghĩa là nuốt: chim ưng nuốt lấy những con rắn. Nó được trình bày với một thân hình phía trên là hình người, mắt và mỏ to, mào ngắn màu xanh, lông vàng trên đầu, trên chân và trên cánh. Tuy nhiên, đôi khi, chính yếu trong nghệ thuật tranh họa Hindu, nó được trình bày bằng hình dáng người với đôi cánh.
Thần thoại về con chim lớn ăn nuốt rắn dường như có nguồn gốc ở vùng Lưỡng Hà (Mesopotamia). Rắn tượng trưng cho tiềm thức hay những khía cạnh bị che khuất của tâm, những cảm xúc và tư tưởng mà chúng nằm ẩn dưới bề mặt. Chim ưng có thể quan sát thấy những con rắn nhỏ và lập tức sà xuống. Tương tự, bằng việc thực hành nhận biết rõ những cảm thọ, tư tưởng và hành động của mình, ta phát triển trí tuệ có thể quan sát đầy đủ những vận hành của tâm và bằng cách đó ta có thể đạt được sự giải thoát hoàn toàn để có thể sử dụng tâm theo một cách có lợi ích nhất.
Trong nghệ thuật tranh tượng Hindu, chim ưng là vật cỡi của thần Vishnu. Trong Phật giáo, nó là vật cỡi của Bất Không Thành Tựu Như Lai (Amoghasiddhi), Đức Phật biểu trưng cho trí tuệ viên mãn. Chim ưng cũng là một vị thần của người chữa trị rắn cắn, chứng động kinh và những bệnh do rắn gây ra.
Ngọc lục bảo, cũng được gọi là đá chim ưng, được xem như một vật chống lại độc dược và những hình ảnh chim ưng ở trên đồ nữ trang như là một vật bảo vệ chống lại rắn.
Nguồn: Symbolism of Animals in Buddhism, in Buddhist Himalaya, Vol. I, No. I. Theo Giác Ngộ
Câu Chuyện Phật Giáo Số 27
Người thân gia đình của một người bạn ở Việt Nam bị bệnh hiểm nghèo, ăn uống không được. Cả nhà lo lắng và hỏi Ngọc Hằng có nên mua nhân sâm, yến sào để bồi bổ cơ thể và chữa bệnh. Đây không biết là lần thứ bao nhiêu Ngọc Hằng phải nghe về niềm tin mãnh liệt của rất nhiều người thân, bạn bè ở Việt Nam tin tưởng tuyệt đối vào những loại thực dưỡng cấp cao có thể chữa trị bách bệnh.
Nha Trang quê hương của Ngọc Hằng được xem là có tài nguyên vàng trắng yến sào nên không lạ mọi người đều ca ngợi yến sào. Nhiều năm trước khi chưa ăn chay, Ngọc Hằng cũng đã từng thử yến sào cao cấp từ người thân nhưng không hề cảm thấy có giá trị, khỏe trẻ hơn hay ham thích gì. Em Ngọc Hằng nói thay vì ăn yến sào thì ăn nấm tuyết với gỏi hay rau trái còn có giá trị dinh dưỡng khỏe mạnh hơn. Biết bao nhiêu lần Ngọc Hằng đã giải thích, phân thích về thành phần dinh dưỡng trong yến sào với những loại thức ăn rẻ tiền khác nhưng rất tốt mà chẳng mấy ai nghe nên Ngọc Hằng cũng mặc kệ.
Yến sào có giá trị dinh dưỡng riêng như các loại thực phẩm khác nhưng đến thời điểm này vẫn chưa có nhiều bằng chứng khoa học thiết thực về lợi ích của yến sào. Thêm vào đó, chất bổ nếu dùngkhông đúng cách sẽ trở thành chất độc giết người. Nếu yến sào và các thực phẩm thượng lưu có giá trị dinh dưỡng cao, cải lão hoàn đồng, chống tất cả các bệnh thì những vua chúa xưa kia phải sống rất khỏe, rất thọ. Trái lại, đa phần đều chết rất trẻ và chết yểu dù chất bổ được đưa vào người mỗi ngày. Nguyên nhân vì sao? Đó là vì tâm không an, bệnh tật cứ tiếp tục kéo đến gây phiền não mà thôi.
Đời sống của chim yến rất tội nghiệp nhưng rất đẹp và việc khai thác tổ yến quá mức làm bao nhiêu chim yến phải chết oan uổng, theo Ngọc Hằng đó là một tội ác. Các loài vật có cuộc sống của họ, có nhà ở riêng để chúng nuôi con cái, xây dựng cuộc sống của mình. Con người chúng ta nhân danh động vật cấp cao sẵn sàng ra tay sát hại mọi loại, khai thác mọi thứ miễn có lợi cho bản thân mình mà không hề nghĩ đến hậu quả sau này. “Tâm bình thế giới bình, tâm an vạn vật an.” Chỉ có rèn tâm ý thiện, thương yêu muôn loài mới mong có cuộc sống khỏe mạnh, an vui, tuổi xuân dâng tràn. Xin gởi đến các bạn bài viết về cuộc sống đầy tình cảm yêu thương và sự khổ nhọc tạo tổ nuôi con của loài chim yến. Cầu mong cho việc khai thác yến bừa bãi sẽ được tiêu trừ để loài yến được bình an bay giữa biển trời xây dựng cuộc sống hạnh phúc cho mình như muôn loài khác trên trái đất. Nam Mô Đại Từ Đại Bi Cứu Khổ Cứu Nạn Linh Cảm Quán Thế Âm Bồ Tát!
“Có 1 lần lâu lắm rồi tôi có gặp người bạn nói ngày xưa ở VN trước năm 75 có lần ông trúng thầu để lấy tổ yến… Sau lần đó ông giải nghệ luôn vì thấy ác độc quá…Ông nói tội lắm cô ơi…đôi khi phải vứt trứng yến hay chim non xuống biển để lấy tổ…Chim mẹ bay về quanh quẩn nơi tổ yến đã mất kêu thảm thiết lắm…Nghe ông nói mà tôi ứa nước mắt thương cho chim mẹ…
CHUYỆN CỦA CHIM YẾN Câu chuyện ray rức lòng người.Xé gió biển, đôi cánh nhỏ dang rộng hết cỡ, lượn lên mất hút trên không trung rồi bất thần lao xuống hết tốc lực. Chẳng có gì ngăn cản nổi, Yến mẹ lao đầu vào vách đá dựng đứng để lại trên vách núi vệt máu tươi uất nghẹn và tiếng kêu khản đặc xé lòng của chim trống…Cảnh tượng đó lặp đi lặp lại trong những ngày vào mùa, mùa mà một loài hân hoan trên sự chết chóc đau thương của một loài khác. Mùa khai thác Tổ Yến.Yến, sống trung thành – chết thuỷ chung.
Một đôi Yến khi đã sống cùng nhau là trọn đời trọn kiếp. Khi đã xây tổ ở đâu là vĩnh viễn không dời đi nữa. Tập tính đó giết hại Yến. Người vẫn thầm ngưỡng mộ và tự hỏi: Trong hàng ngàn chim Yến bay rợp biển kia mà vì sao các cặp đôi không bao giờ nhầm lẫn, không đời nào lang chạ? Hàng vạn tổ Yến ken đặc trên vách đá đó mà Yến luôn về đúng nhà của mình, không bao giờ chiếm tổ chim khác? Rồi người lợi dụng triệt để đặc tính này để dụ Yến, nuôi Yến, lấy tổ Yến và vô tâm nhìn xác Yến…Nếu không may gặp một thợ hái tổ không chuyên hay thiếu kinh nghiệm, không chừa lại một phần tổ, hoặc lấy đúng chiếc tổ của Yến sắp sinh. Chim mẹ trở về trong tình trạng mất tổ, không chịu nỗi đau đớn vì cơn chuyển dạ, yến sẽ quẩn và chọn cách gieo mình vào vách núi, chính nơi đã xây mái ấm để quyên sinh.
Đa số chim Yến trống sau đó bay lượn điên cuồng, kêu gào thảm thiết rồi lao thẳng vào đúng chỗ vợ chết. Vì thế, các vệt máu khô buồn in lại trên vách đá lạnh lẽo thường là vệt đôi bên nhau, thậm chí là chồng lên nhau. Nếu không tự tử, chim Yến trống sẽ sống cô độc suốt quảng đời còn lại.
Xưa, kẻ cùng đinh mạt vận mới phải ra nơi heo hút, leo trèo nguy hiểm tìm hái tổ Yến để mong đổi đời. Thường thì khi có chút vốn họ bỏ nghề và ăn năn sám hối. Họ không đời nào muốn con cái tiếp tục cái việc quá sức mạo hiểm, quá sức thất đức. Và đó là lý do không có “nghề lấy tổ Yến gia truyền” là vậy.
Nay, lòng tham con người vô cùng vô tận.
Tạo hoá không ban phát cho ai tất cả. Loài chim hiền hoà xinh đẹp và thuỷ chung đó lại có đôi chân cực ngắn và mềm yếu. Yến dường như không thể đậu trên mặt đất, Yến treo thân trên vách cheo leo lúc đêm về. Còn lại gần như bay suốt, liên tục từ 12-15 giờ mỗi ngày. Yến săn mồi và ăn trong khi đang bay, ngủ trong lúc bay, thậm chí là “làm chuyện vợ chồng” trên không luôn.
Yến chống chọi để tồn tại, tạo hoá không đành lòng diệt vong một biểu tượng của tình yêu, tình mẫu tử. Trong thiên nhiên hoang dã, chắc Yến là loài duy nhất được mệnh danh “rút ruột cho con” nhờ đặc tính làm tổ bằng nước dãi. Cả chim mẹ và chim cha cùng nhau xây tổ. Nước dãi kết dính cây cỏ và chính những chiếc lông rứt ra đau đớn thành chiếc tổ kỳ diệu. Con người ranh mãnh khi lấy tổ yến đã cố tình chừa một ít. Yến hồn nhiên xây lại, dãi không đủ cho mùa sinh nên thổ huyết ra xây. Tước lông đến xơ rơ đôi cánh, trơ da thịt trân mình chịu đựng cơn gió biển rít buốt đến xương tuỷ. Cho đến chết đi rồi Yến vẫn không thể hiểu được một số giống người man rợ hoan hỷ gọi đó là “Hồng Yến”…
Cuộc đời loài chim yến hiện nay thật quá thương tâm, vì lòng tham và sự tàn nhẫn của con người chưa từng giảm bớt…Hãy dừng lại việc nuôi yến, bán tổ yến cho đến tiêu thụ các sản phẩm từ chim yến.
Nhân nào quả đấy, nếu mình phá hoại nhà cửa của người ta, chia rẽ gia đình người ta, cướp đoạt cái mà chẳng phải thuộc về mình, ăn nuốt vật phẩm dựa trên máu, nước mắt và sinh mạng của chúng sanh thì tương lai gia đình mình, con cháu mình, và cá nhân mình chẳng lẽ không bị quả báo tương tự hay sao?
Vì vậy: Trước khi làm điều gì, hãy nghĩ đến hậu quả của nó.”
Ngọc Hằng
Cập nhật thông tin chi tiết về Giáo Chủ Và “Chim Giáo Chủ” trên website Raffles.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!