Xu Hướng 12/2023 # Đọc Lại Thơ Trần Đăng Khoa – Đình Kính – Hội Nhà Văn Hải Phòng – Văn Hải Phòng – Văn Thơ Hải Phòng – Văn Học Hải Phòng # Top 16 Xem Nhiều

Bạn đang xem bài viết Đọc Lại Thơ Trần Đăng Khoa – Đình Kính – Hội Nhà Văn Hải Phòng – Văn Hải Phòng – Văn Thơ Hải Phòng – Văn Học Hải Phòng được cập nhật mới nhất tháng 12 năm 2023 trên website Raffles.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Mở đầu cuốn TRẦN ĐĂNG KHOA, TUYỂN THƠ , do nhà xuất bản Lao động ấn hành, in khổ 13 x 20, 5, dày 576 trang, là bài viết của Nhà văn Đình Kính với tựa đề “Đọc lại thơ Trần Đăng Khoa”. Được sự đồng ý của nhà văn Đình Kính, và để bạn đọc tham khảo một cách nhìn nhận về thơ Trần Đăng Khoa, chúng tôi xin trân trọng giới thiệu bài viết trên.

Mở đầu cuốn TRẦN ĐĂNG KHOA, TUYỂN THƠ , do nhà xuất bản Lao động ấn hành, in khổ 13 x 20, 5, dày 576 trang, là bài viết của Nhà văn Đình Kính với tựa đề “Đọc lại thơ Trần Đăng Khoa”. Được sự đồng ý của nhà văn Đình Kính, và để bạn đọc tham khảo một cách nhìn nhận về thơ Trần Đăng Khoa, chúng tôi xin trân trọng giới thiệu bài viết trên.

vanhaiphong.com

Thơ Trần Đăng Khoa không xa lạ với tôi (và chắc cũng khỗng xa lạ với bạn đọc). Nhiều bài anh sáng tác đã trên 40 năm. Song giữa ngổn ngang hỗn độn của không biết bao nhiêu chủng loại nơi siêu thị thơ hiện nay trong đó chẳng ít những cách tân rối rắm, tự dưng tôi nảy ra ý định đọc lại thơ anh. Có nhiều nguyên do để đọc. Vừa muốn biết ngưòi thơ được gọi là thần đồng một thủa liệu có còn tồn tại với thời gian; vừa muốn khám phá, soi lại cảm xúc nơi mình. Và điều rất mừng là, sau bao năm đọc lại gần nửa ngàn bài thơ của cùng một tác giả mà vẫn vào, vẫn không nhàm, vẫn còn thích. Trong rất nhiều rất nhiều thơ đang đùn ra với không ít trường phái ta có, bắt chước những thứ đã lỗi thời của Tây Tàu có nhân danh làm mới, thơ Trần Đăng Khoa vẫn có chỗ đứng, vẫn có vị thế, và vẫn không bị bụi thời gian phủ mờ… Chẳng thể đòi hỏi một nhà thơ nhiều hơn cái mà họ không thể. Với những gì Trần Đăng Khoa có, anh đã góp cho nền thi ca Việt Nam một viên gạch không nhỏ. Đấy là điều đáng trân trọng.

Thơ Trần Đăng Khoa vẫn là một miền riêng, không trộn lẫn. Giống như ca khúc Trịnh Công Sơn, giai điệu bài hát khi cất lên, dù nghe ở đâu vẫn nhận ra chất nhạc của riêng một người. Đóng góp của Trần Đăng Khoa còn là chỗ ấy nữa. Viên Mai từng nói: “Làm người thì nên không có cái tôi; có cái tôi thì hay mắc bệnh kiêu căng, cậy tài… Nhưng làm thơ thì không thể không có cái tôi. Không có cái tôi thì dễ mắc tật cóp nhặt, phô diễn…”. Còn Nguyên Hồng thì nhắc nhở: “Trên cái võ đài văn chương nghệ thuật kia, tôi không chỉ không nên bắt chước những ngòi bút có tiếng tăm của thứ văn chương thời thượng, mà ngay cả những ngòi bút cùng khuynh hướng với tôi, đã đi trước tôi, mở đường cho tôi, kích động tôi, tôi không phải là nô lệ, không là cái bóng của sự phỏng cóp”. Nhà văn chỉ có thể đóng góp cái gì đó cho nền văn học khi họ có cái gì đó là của riêng mình… Trần Đăng Khoa có cái Tôi của riêng mình trong thơ.

Thơ Trần Đăng Khoa không hề mới (theo quan niệm nào đấy), càng không lạ, chỉ dung dị trung thành với một lối nói, một lối diễn. Thơ anh chân quê, giống như cô gái làng mộc mạc, không son phấn, không giả vờ ưỡn ẹo làm duyên làm dáng phô khoe cơ thể, nhưng là một thứ duyên thầm đằm thắm, nền nã, nhiều nét đồng bãi. Vẻ đẹp toả ra một cách tự nhiên, hồn hậu, chân chất, thuần khiết, đằm lắng…

Đã ngủ rồi hả trầu?/ Tao đã đi ngủ đâu /Mà trầu mày đã ngủ/ Bà tao vừa đến đó/ Muốn xin mấy lá trầu/ Tao chẳng phải ai đâu/ Đánh thức mày để hái …/Tay tao hái rất nhẹ/ Không làm mày đau đâu/ Đã dậy chưa hả trầu? (Đánh thức trầu- 1966). Cơn giông bỗng cuộn giữa làng/ Bờ ao lở. Gốc cây bàng cũng nghiêng/ Quả bòng chết chẳng chịu chìm/ Ao con mà sóng nổi lên bạc đầu…(Cơn giông – 1972)

Người xưa quan niệm, thơ không nhất thiết cầu kỳ. Thơ cần nhất sự dung dị và cái tình. Lưu Đại Khôi đã nói: “Văn chương quý ở sự giản dị. Phàm viết văn (và cả làm thơ nữa- ĐK), những cây bút già giặn thì giản dị, ý chân thực thì giản dị, vị thanh đạm thì giản dị, khí đầy đủ thì giản dị, thần cao xa mà hàm chứa khôn cùng thì giản dị. Vì vậy, giản dị là cảnh giới tận cùng của văn chương vậy”. Bởi giản dị và không cầu kỳ, câu chữ lại khúc triết, ý tứ thì sâu xa hàm chưa khôn cùng mà thơ Đường hàng ngàn năm nay vẫn tồn tại, vẫn lan toả, vẫn làm say người đoc và vẫn không hề cũ…

Thơ Trần Đăng Khoa không là loại cô nhắc pha chế nhiều hợp chất nhằm đánh lừa dân nghiền, đến nỗi thoáng ngửi hơi đã thèm, cuống quýt muốn uống ngay. Thơ anh hấp dẫn như loại vang nho, nhẹ, không gây xốc, không nồng, không làm cho người ta khùng, nhưng uống rồi sẽ ngấm, sẽ say lâu và khó bỏ…

… Lá trầu khô giữa cơi trầu/ Truyện Kiều gấp lại trên đầu bấy nay/ Cánh màn khép lỏng cả ngày/ Ruộng vườn vắng mẹ cuốc cày sớm trưa/ Nắng mưa từ những ngày xưa/ Lặn trong đời mẹ đến giờ chưa tan… (Mẹ ốm -1970)

Và hai mươi tám năm sau, trong hoàng hôn Hoa Lư -1998: Chiều mờ non nước cũ/ Bóng kinh thành khói bay/ Những vui buồn trận mạc/ Còn nhuốm vào cỏ cây/ …./ Đường cỏ lơ mơ nắng/ Mái tranh chìm chơi vơi/ Vài tán cau mộc mạc/ Thả hồn quê lên trời. (Hoa Lư).

Viết tới đây, tôi bất giác liên tưởng tới đêm thơ nhạc và giao lưu do Chi hội Nhà văn Việt Nam tại Hải Phòng tổ chức nhân kỷ niệm 50 năm ngày thành lập Hội Nhà văn Việt Nam. Trên Sân khấu không lập loè đèn xanh đèn đỏ, không váy ngắn áo cộc, không bá vai bá cổ hối hả nhảy hip hốp, không khoe đùi khoe sườn, chỉ là những ca khúc cũ kỹ, cũ kỹ như những tác giả của nó, cũ kỹ như con người Trần Đăng Khoa vậy, ấy thế mà khi  Hạt gạo làng ta, (thơ Trần Đăng Khoa do Trần Viết Bính phổ nhạc), một bài thơ, một bài hát hết sức dung dị, không màu mè, không mới, không lạ và do các cháu thiếu nhi một trường phổ thông biểu diễn, nhưng hàng trăm khán giả có mặt trong Nhà hát thành phố Cảng đã im phắc, hào hứng chăm chú lắng nghe. Thì ra giá trị đích thực của thi ca nằm ở chiều sâu tâm hồn người nghệ sĩ chứ không phải là thứ màu mè hoa hoè hoa sói theo phép chồng xếp chữ đơn thuần. Mới hay, văn chương đích thực, văn hoá đích thực thì tồn tại mãi. Cái gì nhân danh văn hoá mà không văn hoá, dù vờn ve mỵ người tới mấy chẳng thể đánh lừa được sự thông tuệ của thời gian, tất yếu bị đào thải, hoặc nếu tồn tại, chỉ là thoáng chốc do bị ngợp, chưa kịp phân định mà thôi. Tôi muốn bạn đọc bớt chút thời gian lướt lại bài thơ mà người viết bài này cho rằng là một trong những bài thơ hay của Trần Đăng Khoa. Hay, bởi cái đọng lại cuối cùng nơi bài thơ vẫn là chữ TÌNH .

Hạt gạo làng ta/ Có bão tháng Bảy/ Có mưa tháng Ba/ Giọt mồ hôi sa/ Những trưa tháng Sáu/ Nước như ai nấu/ Chết cả cá cờ/ Cua ngoi lên bờ/ Mẹ em xuống cấy… (1969).

Không cầu kỳ. Rất chân thật. Bởi vậy rất cảm động. Đọc nhiều lần vẫn cảm động. Quả như Tố Hữu khi nhận định về thi ca, đã viết: “Bài thơ hay làm cho người ta không thấy câu thơ, chỉ còn cảm thấy tình người… Thơ là tiếng nói tri âm”. Hạt gạo làng ta, với tôi là tiếng nói tri âm! Trần Đăng Khoa khiêm nhường cho rằng Hạt gạo làng ta bay được cao, bay được xa, được chu du khắp đó đây là nhờ nhạc của ông Bính cõng đi. Đúng một phần. Loại trừ tác dụng lan toả trong một giao diện khá rộng nhờ sự chuyển tải  có hồn trong một sức sống mới của âm nhạc, Hạt gạo làng ta đủ tư cách sừng sững đứng độc lập bằng vị thế là một thi phẩm đi cùng thời gian…

Thơ không cốt ở xác chữ  mà cốt ở hồn chữ. Chữ là phương tiện để tác giả gửi hồn vào đó. Và khi ấy, lẽ đương nhiên hồn người hồn chữ quyện nhập vào nhau làm một. Người viết không xúc động, không tâm, chỉ muốn phô diễn sự lạ sao có khả năng thổi hồn vào các con chữ? Sự “cưỡng hiếp” ấy chỉ cho ra đời những hình hài nhem nhuốc, gàn dở. Và đó nhất quyết không thể là thơ. Làm lạ thơ đâu khó. Ăn cơm bằng bát chuyển qua xúc cơm trong cốc, với những người có nghề, dễ ợt. Mục đích cuối cùng của thơ là hay chứ không phải là lạ. Thể hiện bài thơ bằng cách kiểu gì đều do cái hồn, cái tâm, sự lịch lãm vốn có của nhà thơ và điều chất chứa trong lòng muốn phô ra, muốn giãi bày quyết định. Điều ấy nhiều khi nằm ngoài dự định người viết. “Tôi để mặc bài thơ chọn lấy thể thơ”– J.Seervielle. Câu thơ hay, bài thơ hay chẳng phải tự dưng mà có. Đó là thứ trời cho. Nhưng để chộp được cái thứ ngọc quý giá trời phú ấy, trong mỗi nhà thơ phải luôn túc trực ý thức nghệ sĩ, phải túc trực ý thức sáng tạo. “Các thần thánh ban cho ta câu thơ thứ nhất, nhưng chính ta phải dụng công làm lấy câu thơ thứ hai”- P. Val ry

Tiếng chim vách núi nhỏ dần/ Rì rầm tiếng suối khi gần khi xa/ Ngoài thềm rơi cái lá đa/ Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng (Đêm Côn Sơn- 1968)

Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng, câu thơ bật ra tưởng chừng ngẫu nhiên, chỉ là một thoáng cảm bằng tai, nhưng đọc kỹ cả đoạn, cả bài, không khó khăn nhận ra sự bất chợt ấy bắt đầu từ sự rung động của trái tim, sự bất chợt ấy có vẻ vô thức, nhưng lại là tích góp đã được chuẩn bị của ý thức. Bởi thế câu thơ trở nên có hồn, có thần.

Và hai mươi bốn năm sau, sau Đêm Côn Sơn là  buổi chiều ở một thành phố cổ nơi quê người: Thành xưa đổ bóng vào trời/ Khói sương lãng đãng – Một thời đã xa/ Tháng năm lừng lững đi qua/ Chỉ còn mấy đỉnh tháp già ngẩn ngơ/ Chiều buông ngọn khói hoang sơ/ Tiếng chuông ngàn tuổi tỏ mờ trong mây… (Qua xuzddan – 1992). Rồi mây nước ở Trường Sa: Gió rát mặt, đảo luôn thay hình dạng/ Sỏi cát bay như lũ chim hoang/ Cứ mặc nó. Nào hỡi các chiến hữu/ Ta bắt đầu thôi. Mây nước đã mở màn…/ Những giai điệu ngang tàng như gió biển/ Nhưng lời ca toàn nhớ với thương thôi/ Đêm buông xuống nhìn nhau không rõ nữa/ Cứ ngỡ như vỏ ốc cất thành lời. (Lính đảo hát tình ca trên đảo)

Chẳng rối rắm, không có câu chữ lạ. Bài thơ hiện ra tự nhiên, tự nhiên như cuộc sống vốn thế, tự nhiên như thể người làm thơ không có ý định làm thơ. Mộc mạc như bờ ao gốc rạ, chân chất tựa hạt đậu củ khoai, mà sao gần gũi, thân thiết, hoà đồng, gợi mở thế ? Phải chăng nhờ cách viết, cách cảm rất chân thành đồng quê đó mà bao năm rồi thơ Trần Đăng Khoa cứ bỏ bùa mê vào nhiều thế hệ bạn đọc để người viết ra những câu thơ dung dị nhưng cao sang ấy trở thành một thương hiệu có giá?

Khi trích những câu thơ trên, tôi chợt nhớ đến ý kiến của một người Nam ta, ông Ngô Thì Nhậm: “ Thơ mà quá cầu kỳ thì sa vào giả dối, quá trau chuốt thì sa vào xảo trá, hoang lương hiu hắt thì sa vào buồn bã. Chỉ có thuần hậu giản dị, thẳng thắn không giả dối không xảo trá, không buồn bã mà rốt cục chú trọng đến sự ngăn chặn điều xấu, bảo tồn điều hay, mới là những đặc sắc chính của thơ…” Và ý kiến một ông Tây, ông Yannis Rýtsos : “Kết quả của một tác phẩm nghệ thuật hay là làm cho chúng ta cảm thấy sảng khoái và khiến cho chúng ta muốn sáng tạo ra một cái gì đó. Chúng ta muốn yêu và muốn đựơc yêu”. Dù ở gầm trời nào, dù ở thời buổi nào, dù tây hay ta, quan niệm về thơ hay cũng chỉ là một.

Trần Đăng Khoa là gã có tài quan sát, quan sát rất tinh tế. Từ hương nhãn, hoa bưởi, tiếng chim chích choè, tiếng trống làng, tiếng máy cày xình xịch, đến chiếc ngõ nhỏ, cánh đồng làng, cây dừa, thầm chí cả bé Giang tập xe đap, đánh tam cúc với mèo; rồi một bông hoa duối, một cây xoan, một bến đò… cũng thành thơ, lại là thơ không xoàng thì giỏi quá!

Sự quan sát đó, nếu trước đây chỉ loanh quanh trong góc sân, vườn cải, ao nhà; hình ảnh quan sát bó gọn, tươi non trong khuôn khổ con ong, cái kiến, cây dừa, hạt gạo, cây đa, cánh diều, thì theo năm tháng, theo tỉ lệ thuận với dung nạp kiến thức, văn hoá và bằng sự dậy thì rồi hồi xuân của cảm xúc, càng về sau đã rộng lớn hơn, khái quát, nhân loại hơn, vừa nồng đượm, lại cũng vừa đằm lắng.

… Tôi đứng lặng trước em/ Không phải trước lỗi lầm biến em thành đá cuội/ Nhớ vận nước có một thời chìm nổi/ Bắt đầu từ một tình yêu/ … Có những lỗi lầm phải trả bằng cả một kiếp người/ Nhưng lỗi lầm em phải trả bằng máu toàn dân tộc / Máu vẫn thấm qua từng trang tập đọc/ Vó ngựa Triệu Đà còn đau đến hôm nay. (Trước đá Mỵ Châu- 1974). Hoặc trước nỗi mong manh của những kiếp người: … Ôi thiên nhiên cảm ơn người nhân hậu/ Những so le, người kéo lại cho bằng/ Ít nhất cũng là khi nằm xuống/ Trong mảnh gỗ rừng, dưới một vầng trăng../ … Tôi đi giữa nổi chìm bao số phận/ Người xưa vẫn đây mà, có xa cách chi đâu/ Tôi thầm gọi. Sao không ai lên tiếng/ Chỉ hoang vắng dưới chân và sương khói trên đầu…/ … Trước thiên nhiên con người như khách trọ/ Như ảo ảnh chập chờn thoáng đến, thoáng lìa xa/ Chúng ta sống bên nhau, dẫu năm này tháng khác/ Thì cũng vẫn chỉ là một thoáng giữa sân ga… ( Ở nghĩa trang Văn Điển- 1986).

Trần Đăng Khoa có nỗi đau chứ! Nhưng anh không hằn học, mà thơ anh là sự xót xa trong nỗi đồng cảm và sẻ chia. Tôi cho rằng thái độ ứng xử và cách nhìn của người làm thơ quyết định tính nhân văn của thơ!

Trước những biến động của nhân loại, Trần Đăng Khoa viết:

Thời gian vẫn đi lạnh lùng khắc nghiệt/ Có kiệt tác hôm nay, mai đã bẽ bàng rồi/ Bao thần tượng ta tôn thờ cung kính/ Mưa nắng bào mòn, còn trơ lại đất thôi/

Ở nơi nào kia chiến tranh đang gầm rú/ Những quốc gia nào đang thay ruột đổi ngôi/ Trái đất mỏng manh và đáng thương biết mấy/ Trước những mưu mô, toan tính của con người… (Mátx cơ va, mùa đông năm 1990)

Nhiều người cho rằng thơ Trần Đăng Khoa có hai phần, phần thơ trẻ con và phần thơ người lớn. Tôi không nghĩ có sự rạch ròi đứt đoạn như vậy. Đọc thơ anh, tôi nhận ra sự đồng nhất liền mạch trong cảm xúc, trong suy tưởng và cả sự liền mạch trong cách diễn đạt, cách nói, cách kể, cách cấu trúc thơ…(mà các nhà lý luận vẫn gọi là thi pháp). Có điều phần thơ sau này, ý tứ sâu xa hơn, thâm hậu hơn nhuần nhị hơn, và bởi thế nói được nhiều điều hơn. Càng không thể nói thơ Trần Đăng Khoa viết khi còn nhỏ hay hơn thơ viết khi anh đã lớn. Nhận định như vậy là chủ quan, thiếu công bằng. Mảng thơ sau này của anh, đặc biệt là mảng thơ viết về người lính khi anh là ngưòi lính, và mang thơ viết về nhân tình thế thái khá đặc sắc và có nhiều đóng góp.

Ta ngự giữa đỉnh trời/ Canh một vùng biên ải/ Cho làn sương mong manh/ Hoá trường thành vững chãi/…   Lán buộc vào hoàng hôn/ Ráng vàng cùng đến ở/ Bao nhiêu là núi non/ Ríu rít ngoài cửa sổ/  Những mùa đi thăm thẳm/ Trong mung lung chiều tà/ Có bao chàng trai trẻ/ Cứ lặng thinh mà già… (Đỉnh núi- 1998)

Gửi bác Trần Nhuận Minh là khúc tâm sự của người đã từng trái, qua rồi những gì ngộ nhận, non trẻ; là lời tự bach của kẻ đã nhận biết mọi lẽ ở đời, với những gì là thật, những gì là phù phiếm. Là nỗi niềm của kẻ tu hành gần đắc đạo đã ngộ nhiều sự. Tôi cho rằng đây là  bài thơ hay, bình dị mà lắng đọng, nhiều chiêm nghiệm, phiêu diêu mà sâu xa, lắm nghĩ ngợi… Bác làm bông lau ngàn/ Thả hồn vào hoang vắng/ Khi buồn thì hát ca/ Lúc vui thì im lặng/  Em quẩy bầu trăng gió/ Bác gánh bao nỗi người/ Sóng đôi mà đơn độc/ Đi mang mang trong đời/ Giờ thì em đã chán/ Những vinh quang hão huyền/ Muốn làm làn mây trắng/ Bay cho chiều bình yên/…/ Đất trời thì chật hẹp/ Làng quê thì mênh mông/ Thung thăng em với bác/ Ta cưỡi thơ ra đồng (1998). Sao có thể nói thơ ở giai đoạn sau này của Trần Đăng Khoa không hay được! Gửi bác Trần Nhuận Minh, một thi phẩm ngắn gọn mà chất chứa, ủ ấp bao nỗi niềm. Đọc rồi cũng thấy nao nao…

Để kết thúc những câu chữ nghĩ sao viết vậy của mình, tôi cho rằng cái làm nên giá trị tác phẩm thi ca nói riêng và văn chương nói chung, hình như chỉ ý thức công dân ở người viết không thôi chưa đủ. Có điều ấy cũng đã là đáng quý, đã là đáng trân trọng. Nhưng để tác phẩm cao hơn, bao quát hơn và tồn tại lâu dài, ngoài ý thức công dân, người viết phải có thêm phẩm chất và ý thức nghệ sĩ. Mừng là, theo cảm nhận chủ quan của riêng người viết bài này, thơ Trần Đăng Khoa có  ý thức ấy. Và chính phẩm chất và ý thức nghệ sĩ ở người cầm bút, khiến thơ anh có thể chiềng ra mà đương đầu trong sự đào thải nghiệt ngã, nhưng công tâm và sòng phẳng của thời gian…

ĐK

Hội Chơi Chim Cảnh Hải Phòng

[09/10/13] CÂU LẠC BỘ CHÀO MÀO THIÊN LÔI ĐƯỜNG XIN THÔNG BÁO Sau Nhiều tiếng đồng hồ Vật Lộn, đến 6h30 tối hôm nay thì giàn chim của hội đã được dựng đã xong. Dự kiến giàn có thể treo được 40-50 lồng. Cám ơn Lã Phương Linh đã giúp Phong Vũ hoàn thành chương trình này. Kính mong các anh em gần xa trong Thành Phố Hoa Phượng Đỏ đến giao lưu khai trương giàn Thiên Lôi Đường cùng anh em chúng tôi THỜI GIAN : 13H30P CHIỀU NGÀY MAI, CHỦ NHẬT NGÀY 8/9/2013 ĐỊA ĐIỂM : NGÕ 380 THIÊN LÔI. SỰ HIỆN DIỆN CỦA ANH EM SẼ LÀM CHO HỘI THÊM LỚN MẠNH. KÍNH MONG ANH EM ĐẾN THAM GIA. Rất mong các anh em trong Cội Miếu Tây qua giao lưu cùng anh em chúng tôi. KÍNH BÁO! CÂU LẠC BỘ CHÀO MÀO THIÊN LÔI ĐƯỜNG XIN THÔNG BÁO Sau Nhiều tiếng đồng hồ Vật Lộn, đến 6h30 tối hôm nay thì giàn chim của hội đã được dựng đã xong. Dự kiến giàn có thể treo được 40-50 lồng. Cám ơn Lã Phương Linh đã giúp Phong Vũ hoàn thành chương trình này. Kính mong các anh em gần xa trong Thành Phố Hoa Phượng Đỏ đến giao lưu khai trương giàn Thiên Lôi Đường cùng anh em chúng tôi THỜI GIAN : 13H30P CHIỀU NGÀY MAI, CHỦ NHẬT NGÀY 8/9/2013 ĐỊA ĐIỂM : NGÕ 380 THIÊN LÔI. SỰ HIỆN DIỆN CỦA ANH EM SẼ LÀM CHO HỘI THÊM LỚN MẠNH. KÍNH MONG ANH EM ĐẾN THAM GIA. Rất mong các anh em trong Cội Miếu Tây qua giao lưu cùng anh em chúng tôi. KÍNH BÁO!

HN-Toàn Quốc- Bán Cóng sứ Bát Tràng Sản Xuất Theo Yêu Cầu Đẹp Độc Giá Cả Hợp Lí.

MỜI AE AI THÍCH CHƠI CÓNG BÁT TRÀNG NHÉ…NGƯỜI VIỆT NAM DÙNG HÀNG VIỆT NAM THÔI

thông báo thi khuyên liên tỉnh tại Hải Phòng ngày 19/5

hông báo Hội thi chim vành khuyên liên tỉnh các CLB phía Bắc tại Hải Phòng ngày 19/05/2013

THÔNG BÁO

(V/v tổ chức hội thi chim vành khuyên liên tỉnh các CLB phía Bắc tại Hải Phòng ngày 19/05/2013)

Hải Phòng , ngày 01/05/2013

Mừng kỷ niệm những ngày lễ lớn trong tháng 05. Hưởng ứng năm du lịch Đồng Bằng Sông Hồng, Được sự nhất trí của Ban lãnh đạo Cung văn hoá, Ban chấp hành CLB thông báo tổ chức hội thi chim vành khuyên liên tỉnh các CLB phía Bắc tại thành phố Hải Phòng.

Thời gian: Đúng 9h00 chủ nhật, ngày 19/05/2013 khai mạc hội thi.

Bốc số dự thi từ 7h30 đến 8h15.

Địa điểm: Cung văn hóa LĐHN Việt Tiệp, số 53 Lạch Tray, Ngô Quyền, HP

Lệ phí cuộc thi: 200.000đ/ 01 đầu lồng.

Giải thưởng:

* Giải nhất gồm tivi LCD, cờ và giấy chứng nhận của Cung Văn Hóa. * Giải nhì gồm tivi LCD, cờ và giấy chứng nhận của Cung Văn Hóa. * Giải ba gồm quạt điện , cờ và giấy chứng nhận của Cung Văn Hóa. * 02 Giải khuyến khích mỗi giải một nồi cơm điện và cờ. * 05 Giải topten gồm bàn là điện và cờ. *05 giải trung cách có cờ và phần thưởng

CLB xin trân thành kính mời CLB tỉnh bạn cũng như cá nhân yêu quý tiếng chim vành khuyên tới tham gia hội thi. Sau hội thi CLB mời toàn thể anh em tham gia cthi ở lại dùng bữa cơm thân mật với anh em hội khuyên CLB.

Trân thành cảm ơn!

Thay mặt CLB Đoàn ngọc Minh

Nguồn từ: http://chimcanhhaiphong.com/diendan/showthread.php?t=1024&pagenumber=#ixzz2RG5iAysa

chimcanhhaiphong.com Thông báo Hội thi chim vành khuyên liên tỉnh các CLB phía Bắc tại Hải Phòng ngày 19/05/2013 THÔNG BÁO

Chợ Chim Cảnh Lớn Nhất Hải Phòng

Chợ Hàng Hải Phòng là chợ phiên duy nhất hiện nay còn họp tại Hải phòng và vẫn còn mang dáng dấp một phiên chợ quê trong lòng thành phố. Với người Hải Phòng, chợ Hàng không chỉ là nơi buôn bán, nó còn là địa điểm sinh hoạt văn hóa cộng đồng. Ngoài việc buôn bán và trao đổi hàng hóa, rất đông người thường xuyên đến chợ để chơi, để ngắm những cây, con giống và trải nghiệm những nét văn hóa. Chợ cũng thu hút rất nhiều người từ các tỉnh thành lân cận như Nam Định, Thái Bình, Hải Dương…

Chợ chuyên bán các loại cây giống (cây cảnh, rau giống), con giống (chó, mèo, thỏ, chuột cảnh và chim…) và các loại dụng cụ và phân bón phục vụ cho việc trồng và chăm sóc cây và các vật nuôi. Chợ vừa là nơi buôn bán của các tiểu thương chuyên nghiệp, vừa là nơi những người chơi vật nuôi hoặc nông dân mang chim, cá cảnh và sản vật của mình đến bán hoặc trao đổi. Đối với nhiều người, đi chợ Hàng trước hết là thú đi chơi, sau mới là đi mua bán.

Ngày nay, Chợ Hàng như một chợ bán những đồ cũ hay những đồ rẻ tiền mà dân vẫn hay dùng đến. Cứ chủ nhật hàng tuần du khách thập phương hay người dân trong vùng thường rủ nhau đi Chợ Hàng đôi khi chỉ để ngắm những vật nuôi, cây cảnh hoặc để chọn mua một thứ hàng cần thiết trong gia đình.

Khi đến Chợ Hàng người ta thường dễ chọn mua cho mình một món đồ vì giá cả phải chăng và vì Chợ Hàng có đủ các loại mặt hàng mà các chợ khác có thể không có: từ nồi niêu, bát đĩa hay quần áo, cuốc xẻng, cây con giống… thậm chí cả các loại thuốc lá, thuốc lào hay những món đồ thân thuộc của làng quê Việt mà ngày nay khó kiếm như bồ kết

TVT Chào Mào Bẫy Đấu – Kênh về Chim Chào Mào: Bẫy đấu Chim Chào Mào, Huấn luyện Chào Mào thành chim mồi, Gột và thuần Chào Mào bổi, Chăm sóc Chim Chào Mào. Bên cạnh đó sẽ có những clip về bẫy Chích Chòe Than, Vành Khuyên, Cu Gáy hay một số loài chim lạ khác. Ngoài ra, kênh còn chia sẻ những kiến thức, kinh nghiệm bổ ích về cuộc sống xung quanh.

Văn Phòng Chủ Tịch Phi Nhân Loại

Trở lại khách sạn, Thước Thừa Dụ cắm chốt ở phòng Yến Tây Như không chịu ra, hết nói chuyện phiếm từ chuyện đông đến chuyện tây lại lấy cớ là muốn giúp sắp xếp đồ đạc vệ sĩ mới mua về.

“Được rồi, mấy thứ này tôi tự làm được, không phiền đến anh.” Yến Tây Như cầm lấy cái cốc trong tay Thước Thừa Dụ, “Hơn mười giờ rồi, anh về phòng đi ngủ đi.”

Thước Thừa Dụ ngồi trên giường lắc đầu: “Tôi không buồn ngủ.”

“Nhưng tôi mệt, tôi muốn đi ngủ.” Yến Tây Như rất ít khi nói chuyện cọc cằn kiểu này, nhưng cứ bị Thước Thừa Dụ vây đến vây đi, có muốn ôn hòa nhã nhặn cũng không nổi.

Thước Thừa Dụ há miệng muốn tìm lý do để ở lại thêm, nhưng còn chưa kịp nói thì Yến Tây Như đã mở cửa đuổi người.

Tiễn được Thước nhị thiếu đi rồi, Yến Tây Như mới nhẹ nhàng thở ra một hơi, tắt đèn nằm lên giường.

Không biết qua bao lâu, ngoài kính cửa sổ truyền đến tiếng gõ rất nhỏ. Yến Tây Như mở mắt, ánh mắt sáng rực trong bóng đêm, hoàn toàn không có vẻ gì là mệt mỏi hay buồn ngủ, đứng dậy đi đến trước cửa sổ, đẩy ra. Con chim khuyên vừa mổ cửa kính bay lên, đậu xuống bên cạnh.

Yến Tây Như vuốt vuốt đầu nó, giẫm lên bậu cửa sổ, lao thẳng ra ngoài, cứ thế từ cửa sổ tầng ba nhảy xuống.

Đã gần đến đầu đông, cho dù hiện tại đang ở phía nam, nhiệt độ không khí chưa xuống dưới 0 độ, nhưng ở nơi rừng núi hoang vu, tiết trời ban đêm vẫn lạnh đến rùng mình.

Yến Tây Như đứng trước cửa một hang núi, chăm chú quan sát vài nhánh cây đã đốt và một cái đèn pin đã hết pin nằm lăn lóc trên đất.

“Đi ra từ đây sao?” Yến Tây Như hỏi.

Trả lời lại chỉ có tiếng kêu lanh lảnh của con chim nhỏ đang đậu trên vai.

Yến Tây Như nhíu mày, vỗ tay hai cái, tiếng vỗ tay trong rừng núi vắng lặng vang vọng khắp nơi.

Từ tán cây truyền đến những tiếng “Guuu — guuu –” liên tiếp, trong bóng đêm, vô số con mắt màu vàng như bóng đèn lập lòe sáng trên những chạc cây.

Yến Tây Như phất tay, “Tìm người. Không được bỏ qua bất kỳ một dấu vết nào, có tin gì lập tức báo về cho ta.”

Cây cối xung quanh vang lên một tràng âm thanh tác tác hỗn loạn, chẳng mấy chốc đã trở lại vẻ tĩnh lặng yên ả vốn có của rừng cây, tất cả cú mèo vừa xuất hiện đều biến mất không còn dấu vết.

Yến Tây Như xòe tay, trong lòng bàn tay xuất hiện một phiến lông chim xinh đẹp phát ra ánh sáng lấp lánh, thỉnh thoảng còn có những mảnh bụi sáng theo động tác di chuyển nhẹ nhàng rơi xuống.

Con chim khuyên nhỏ vỗ cánh bay lượn xung quanh, Yến Tây Như nương theo ánh sáng từ phiến lông cẩn thận xem xét dấu vết trên mặt đất, một lúc lâu sau mới đứng thẳng dậy, “Chúng ta đi tiếp xem.”

Một người một chim cứ thế ở trong rừng chậm rãi đi tới, từng mảnh bụi sáng nhu hòa rải rác theo bước chân bỏ lại phía sau.

“Thiếu gia, ngài xem…” Vệ sĩ cẩn trọng hỏi, thăm dò sắc mặt Thước Thừa Dụ.

Thước Thừa Dụ đóng cửa phòng Yến Tây Như lại, trầm giọng nói: “Lấy xe đi. Còn nữa, liên lạc ngay với đại thiếu gia.”

***

“Aaaaa–” Thước Cần vươn vai ngáp một cái thật dài, dụi dụi mắt, “Boss, chúng ta có cần chuyên nghiệp đến mức này không, sắp 12 giờ đêm rồi đấy.”

Thiều Khuynh Tri không trả lời, tiếp tục đi theo người của đội khảo cổ, vừa đi vừa nghe người nọ nói qua tình hình.

Thước Cần đành phải kéo áo khoác co chặt người lại, vừa ngáp vừa đi theo.

Người của đội khảo cổ chỉ vào lối vào mộ, “Chính là nơi này. Bây giờ không còn ai dám đi vào trong nữa, chúng tôi chỉ có thể lần theo vị trí cửa vào, bắt đầu tiến hành làm sạch đá khắc xung quanh. Thầy Vương đã lớn tuổi như thế, hiện tại lại lo lắng đến độ mỗi ngày đều mất ngủ, nếu ngài có thể giúp đỡ, chúng tôi thật sự cảm kích vô cùng.”

Thiều Khuynh Tri khoát tay: “Mạng người là chuyện quan trọng, không biết không nói, nếu đã biết tôi đương nhiên phải giúp mọi người, huống hồ trong số đó còn có bạn học của cấp dưới tôi.”

Thước Cần nghe vậy sửng sốt, chẳng lẽ vì chuyện Hồ Diệu đến nhờ mình… Ầy, không có khả năng đâu, người thần kinh thác loạn như boss sao có thể làm loại chuyện không có lợi chứ, nói không chừng là muốn mượn cơ hội này tuyên truyền cho Vạn Vật thôi.

“Cũng muộn rồi, các vị cứ về thị trấn nghỉ ngơi đi.” Người nọ chà xát hai tay, có vẻ như sắp không chịu nổi cái lạnh của đêm khuya trên núi.

Thiều Khuynh Tri gật đầu, ra hiệu cho mọi người trở lại xe.

Chờ xe của người thuộc đội khảo cổ đi rồi, y mới đưa mắt nhìn Đỗ Khâm, Đỗ Khâm gật đầu, chuyển tay lái, chạy xe đến một chỗ tương đối bí mật bên cạnh sườn núi.

Thước Cần vừa lên xe đã ngủ như chết, có khi bị sét đánh cũng không tỉnh nổi. Thiều Khuynh Tri nhìn hắn há hốc mồm ngủ ngon lành, bất đắc dĩ lắc đầu, “Để cậu ấy ngủ trên xe đi. Cửu Nguyệt, rắc chút đế ốc xung quanh.” (1)

Ninh Cửu Nguyệt lấy trong túi ra một cái bao nhỏ, mở ra lấy bột phấn rắc hết cả trong xe và xung quanh bên ngoài xe. Từ đầu đến cuối Thước Cần vẫn nhủ đến bất tỉnh nhân sự, hoàn toàn không biết gì.

Thiều Khuynh Tri cởi áo khoác ngoài ra đắp lên người hắn, nhìn thêm một lúc, sau đó mới mở cửa xuống xe.

Bốn người tranh thủ lúc đội khảo cổ còn chưa đi kiểm tra, nhanh chóng tiến vào trong mộ.

La Vũ nhăn nhăn mũi, “Ban nãy ở bên ngoài tôi ngửi thấy có mùi cáo, chậc chậc, quả nhiên.”

Ninh Cửu Nguyệt lập tức phóng sang một ánh mắt sắc như dao: “Cậu nói ai đấy?”

“Cũng có phải tộc nhà cô đâu, kích động cái gì.”

“Không cùng tộc nhưng vẫn cùng loài!”

Bên trong mộ hoàn toàn không nhỏ giống như Hồ Diệu miêu tả mà rộng lớn vô cùng, một đại điện, hai thiên điện và một hậu thất, nhưng trong mắt người thường lại chỉ nhìn được một phần của thiên điện và hậu thất, vậy nên mới cảm thấy nơi này là một lăng mộ quy mô không lớn.

“Có người lợi dụng lăng mộ này để làm chút chuyện không sạch sẽ.” Thiều Khuynh Tri đi xuyên qua bức tường giả, cúi đầu xem xét dấu vết trên mặt đất trong đại điện.

“Boss, bên này có lối ra.” Thanh âm Ninh Cửu Nguyệt từ phía xa truyền tới.

Hai mắt Thiều Khuynh Tri sáng quắc như ánh đèn trong đêm tối, nhìn đến cánh cổng vòm cao hai mét ở nơi sâu nhất, “Hẳn là thông sang phía bên kia núi, chúng ta đi xem thế nào.”

***

Yến Tây Như cứ thế đi theo dấu vết trên đất, càng đi càng xa, cuối cùng dừng lại bên cạnh một vách đá dựng đứng.

“Lẽ nào nhảy xuống dưới rồi?” Yến Tây Như ngồi xổm xuống, nhìn xuống dưới vách đá.

Vành khuyên dùng móng vuốt quắp lấy phiến lông phát sáng, vội vã kêu loạn.

“Yên tâm, ta sẽ không nhảy xuống đâu. Nơi này chắc phải có lối đi khác.”

Đột nhiên một bóng đen to lớn từ trên trời giáng xuống, đậu bên người Yến Tây Như, là một con cú mèo.

“Phát hiện cái gì?”

“Guuu–“

“Nơi không dám đến gần sao… Trách không được. Ngươi đi đi, báo với mọi người không cần tiếp tục tiếp cận nơi đó nữa. Tiểu Cát, chúng ta cũng đến đó xem xem.”

Yến Tây Như đi theo con cú mèo bay đằng trước, tốc độ hoàn toàn không còn là thứ người thường có thể thấy được.

Một người hai chim chạy chưa được bao lâu, lùm cây phía trước đột nhiên có động tĩnh. Một người từ bên trong lao ra, vừa lúc lao thẳng vào túm lấy tay Yến Tây Như, “Anh!”

Yến Tây Như vội vàng dừng lại, đỡ lấy người nọ, “Tiểu Lam?”

Người nọ không ai khác chính là cô giáo đang mất tích, Mạc Lam.

“Không sao chứ?” Yến Tây Như xem xét cẩn thận từ trên xuống dưới một lượt.

Mạc Lam cười hì hì: “Em là ai chứ, sao lại có chuyện được.”

Yến Tây Như có chút tức giận: “Đừng có tự tiện hành động. Chẳng may có thứ gì nguy hiểm khó lường, em nghĩ một mình em đối phó được sao?”

“Anh, rõ ràng em báo tin cho anh rồi mà. Em cũng đâu có ngu, thấy nguy hiểm lại lao vào, phải không Tiểu Cát?” Mạc Lam cười híp mắt.

Vành khuyên Tiểu Cát kêu chíp chíp vài tiếng tỏ vẻ đồng ý.

“Vừa đi vừa nói chuyện, đây cũng không phải chỗ tốt lành gì, buổi tối tốt nhất đừng đến đây.” Yến Tây Như nhìn rừng rậm đen kịt phía trước, kéo Mạc Lam đi, Tiểu Cát bay trước mở đường.

“Thiếu gia, phía trước có ánh sáng!” Vệ sĩ cảnh giác bước lên, chỉ về phía trước, “Không giống đèn pin, cũng không phải ánh sáng từ lửa hay đuốc.”

Không cần bọn họ nói Thước Thừa Dụ cũng đã nhìn ra, bởi vì thứ ánh sáng kia vô cùng quen thuộc, lấp lánh mềm mại như nước. Anh nheo mắt lại nhìn một lúc, cuối cùng hạ quyết tâm nói: “Đi qua đó!”

“Anh, đằng kia có người!” Mạc Lam đột nhiên dừng lại kêu lên.

“Thấy rồi.” Yến Tây Như chẳng những thấy, mà trong lòng cũng đã biết chắc người bên đó là ai.

Ánh sáng từ đuốc dồn dập kéo đến, khiến hai người đồng thời nheo mắt lại.

“Thiếu gia, là Yến giáo sư!” Vệ sĩ kích động kêu lên.

Nói thừa, ai chẳng nhìn thấy! Thước Thừa Dụ trừng mắt liếc vệ sĩ, nhanh chóng bước sang.

“Thừa dụ.” Yến Tây Như đoán đúng rồi, nhưng trong lòng hiện tại không thể nói rõ rốt cuộc là vui vẻ hay là bất đắc dĩ.

“Một mình cậu nửa đêm nửa hôm chạy lên núi, lỡ như xảy ra chuyện gì thì làm sao! Ngọn núi này ban ngày đi vào còn chưa chắc đã ra được, huống hồ là đang nửa đêm!” Thước Thừa Dụ dường như vô cùng tức giận.

“Tôi……”

Yến Tây Như còn chưa nói xong, ánh mắt sắc như dao của Thước Thừa Dụ đã đảo tới Mạc Lam đang đứng ngơ ngác tò mò bên cạnh, tiện thể quét qua cả chỗ tay Yến Tây Như đang bị cô nắm chặt.

“Cô ta là ai?!” Thước Thừa Dụ nghiến răng nghiến lợi.

“Tôi là Mạc Lam.” Mạc Lam rất tích cực tự giới thiệu.

Ai cần biết tên cô là cái gì! Thước Thừa Dụ chỉ hận không thể đem ánh mắt biến thành tia laser, trực tiếp xuyên thủng qua tay Mạc Lam.

“Đây là em họ tôi.” Yến Tây Như đúng lúc giới thiệu bổ sung, kịp thời ngăn chặn một màn xung đột đổ máu.

Em họ? Vẻ mặt tức giận của Thước nhị thiếu cứng ngắc lại, cực kỳ mất tự nhiên chuyển sang trạng thái ôn hòa dịu dàng: “Một cô gái nửa đêm lên núi cũng không tốt đâu.”

Yến Tây Như thản nhiên nói: “Con bé dạy học ở thôn ngay chân núi, lúc trước vì lên núi tìm người nên mất tích. Tôi nhận được tin nên mới vội vàng chạy lên tìm nó.”

Nửa đêm nửa hôm, một mình đi lên tìm người thì tìm thế nào? Thước Thừa Dụ hiển nhiên rất bất mãn với lời giải thích trăm ngàn lỗ hổng của Yến Tây Như, nhưng anh cũng không muốn truy cứu, chuyện sự thật có thể tìm hiểu sau, vấn đề quan trọng hiện tại là làm sao rời khỏi đây.

“Người của tôi có đánh dấu ở ven đường rồi, chúng ta trở về trong thôn trước rồi nói sau.”

Mạc Lam cổ quái nhìn Thước Thừa Dụ, lại nhìn Yến Tây Như. Yến Tây Như thở dài, “Đi thôi.”

Vệ sĩ hộ tống ba người, nhanh chóng đi xuống chân núi.

“Không phải còn có hai người nữa đi cùng em sao?” Yến Tây Như hỏi.

Mạc Lam gật đầu: “Đúng vậy, nhưng mà anh yên tâm, bọn họ đang ở chỗ rất an toàn, em đã cho Tiểu Cát truyền tin về thôn rồi, người trong thôn sẽ sớm tìm được họ thôi.”

“Em hiểu rồi.”

Thước Thừa Dụ đi bên cạnh ù ù cạc cạc nghe bọn họ nói chuyện như lọt vào trong sương mù, nhưng lại không dám hỏi thẳng, chỉ có thể cố gắng dựng thẳng tai tiếp tục nghe.

***

Thước Cần mở mắt ra, ngồi bật dậy. Ban nãy hình như có gì đấy rung rung, động đất à?!

Nhìn rõ ràng hoàn cảnh hiện tại rồi hắn mới bình tĩnh lại, vẫn đang ngủ trong xe. Nhưng còn những người khác đâu? Sao lại bỏ hắn ở đây một mình thế này! Không thể tha thứ được!

Thước Cần nhìn qua cửa xe, thông qua ánh trăng nhàn nhạt có thể xác định nơi này là chân núi. Hắn lấy điện thoại gọi nhưng một người cũng không được, ngoài vùng phủ sóng, chẳng lẽ bọn họ vào núi?

Thước Cần hít sâu một hơi lấy tinh thần, cầm lấy cái túi Thiều Khuynh Tri dặn hắn mang theo, mở cửa xe bước ra ngoài. Mặc dù không biết trong túi là cái gì, nhưng chắc chắn là mấy thứ có hiệu quả trừ tà dọa quỷ, đúng vậy, phải tin tưởng boss!

Thước Cần khom lưng bò ra phía trước, dựa vào đầu xe quan sát xung quanh. Khắp nơi đều tối đen như mực, hoàn toàn không có dấu hiệu sự sống.

Đột nhiên có thứ gì đó đập vào vai hắn.

Da đầu Thước Cần tê dại, thân thể cứng đờ, cứng ngắc xoay cổ lại, tiếng xương cốt chuyển động vang lên răng rắc trong không gian tối đen tĩnh lặng rõ ràng đến quỷ dị.

Phía sau có một người ngồi xổm, cùng đêm đen hòa thành một thể, mặt đối diện với Thước Cần, trên mặt là nước sơn đen như mực, chỉ lộ ra hai con mắt sáng rực.

“Mẹ ơi quỷ!!!!!” Trong núi vang lên một tiếng hét chói tai như tiếng cá heo, chim chóc lập tức bay tán loạn bốn phía.

Người phía sau tức giận vỗ mạnh lên đầu hắn, “Thằng nhóc thối, quỷ cái đầu mà quỷ!”

(1) Đế ốc (帝屋): một loại cây cối, lá như cây tiêu, gai trở quả đỏ, có thể ngăn điềm xấu, cản trở thú dữ.

Đọc Lại Thơ Trần Đăng Khoa

Mở đầu cuốn TRẦN ĐĂNG KHOA, TUYỂN THƠ , do nhà xuất bản Lao động ấn hành, in khổ 13 x 20, 5, dày 576 trang, là bài viết của Nhà văn Đình Kính với tựa đề “Đọc lại thơ Trần Đăng Khoa”. Được sự đồng ý của nhà văn Đình Kính, và để bạn đọc tham khảo một cách nhìn nhận về thơ Trần Đăng Khoa, chúng tôi xin trân trọng giới thiệu bài viết trên.

chúng tôi

Thơ Trần Đăng Khoa không xa lạ với tôi (và chắc cũng khỗng xa lạ với bạn đọc). Nhiều bài anh sáng tác đã trên 40 năm. Song giữa ngổn ngang hỗn độn của không biết bao nhiêu chủng loại nơi siêu thị thơ hiện nay trong đó chẳng ít những cách tân rối rắm, tự dưng tôi nảy ra ý định đọc lại thơ anh. Có nhiều nguyên do để đọc. Vừa muốn biết ngưòi thơ được gọi là thần đồng một thủa liệu có còn tồn tại với thời gian; vừa muốn khám phá, soi lại cảm xúc nơi mình. Và điều rất mừng là, sau bao năm đọc lại gần nửa ngàn bài thơ của cùng một tác giả mà vẫn vào, vẫn không nhàm, vẫn còn thích. Trong rất nhiều rất nhiều thơ đang đùn ra với không ít trường phái ta có, bắt chước những thứ đã lỗi thời của Tây Tàu có nhân danh làm mới, thơ Trần Đăng Khoa vẫn có chỗ đứng, vẫn có vị thế, và vẫn không bị bụi thời gian phủ mờ… Chẳng thể đòi hỏi một nhà thơ nhiều hơn cái mà họ không thể. Với những gì Trần Đăng Khoa có, anh đã góp cho thi ca Việt Nam một viên gạch không nhỏ. Đấy là điều đáng trân trọng.

Thơ Trần Đăng Khoa vẫn là một miền riêng, không trộn lẫn. Giống như ca khúc Trịnh Công Sơn, giai điệu bài hát khi cất lên, dù nghe ở đâu vẫn nhận ra chất nhạc của riêng một người. Đóng góp của Trần Đăng Khoa còn là chỗ ấy nữa. Viên Mai từng nói: ” Làm người thì nên không có cái tôi; có cái tôi thì hay mắc bệnh kiêu căng, cậy tài... Nhưng làm thơ thì không thể không có cái tôi. Không có cái tôi thì dễ mắc tật cóp nhặt, phô diễn…”. Còn Nguyên Hồng thì nhắc nhở: ” Trên cái võ đài văn chương nghệ thuật kia, tôi không chỉ không nên bắt chước những ngòi bút có tiếng tăm của thứ văn chương thời thượng, mà ngay cả những ngòi bút cùng khuynh hướng với tôi, đã đi trước tôi, mở đường cho tôi, kích động tôi, tôi không phải là nô lệ, không là cái bóng của sự phỏng cóp“. Nhà văn chỉ có thể đóng góp cái gì đó cho nền văn học khi họ có cái gì đó là của riêng mình… Trần Đăng Khoa có cái của riêng mình trong thơ.

Thơ Trần Đăng Khoa không hề (theo quan niệm nào đấy), càng không , chỉ dung dị trung thành với một lối nói, một lối diễn. Thơ anh , giống như cô gái làng mộc mạc, không son phấn, không giả vờ ưỡn ẹo làm duyên làm dáng phô khoe cơ thể, nhưng là một thứ duyên thầm đằm thắm, nền nã, nhiều nét đồng bãi. Vẻ đẹp toả ra một cách tự nhiên, hồn hậu, chân chất, thuần khiết, đằm lắng…

Đã ngủ rồi hả trầu?/ Tao đã đi ngủ đâu /Mà trầu mày đã ngủ/ Bà tao vừa đến đó/ Muốn xin mấy lá trầu/ Tao chẳng phải ai đâu/ Đánh thức mày để hái …/Tay tao hái rất nhẹ/ Không làm mày đau đâu/ Đã dậy chưa hả trầu? (Đánh thức trầu- 1966). Cơn giông bỗng cuộn giữa làng/ Bờ ao lở. Gốc cây bàng cũng nghiêng/ Quả bòng chết chẳng chịu chìm/ Ao con mà sóng nổi lên bạc đầu…(Cơn giông –1972)

Người xưa quan niệm, thơ không nhất thiết cầu kỳ. Thơ cần nhất sự dung dị và cái tình. Lưu Đại Khôi đã nói: “Văn chương quý ở sự giản dị. Phàm viết văn (và cả làm thơ nữa- ĐK), những cây bút già giặn thì giản dị, ý chân thực thì giản dị, vị thanh đạm thì giản dị, khí đầy đủ thì giản dị, thần cao xa mà hàm chứa khôn cùng thì giản dị. Vì vậy, giản dị là cảnh giới tận cùng của văn chương vậy“. Bởi giản dị và không cầu kỳ, câu chữ lại khúc triết, ý tứ thì sâu xa hàm chưa khôn cùng mà thơ Đường hàng ngàn năm nay vẫn tồn tại, vẫn lan toả, vẫn làm say người đoc và vẫn không hề cũ…

Thơ Trần Đăng Khoa không là loại cô nhắc pha chế nhiều hợp chất nhằm đánh lừa dân nghiền, đến nỗi thoáng ngửi hơi đã thèm, cuống quýt muốn uống ngay. Thơ anh hấp dẫn như loại vang nho, nhẹ, không gây xốc, không nồng, không làm cho người ta khùng, nhưng uống rồi sẽ ngấm, sẽ say lâu và khó bỏ…

… Lá trầu khô giữa cơi trầu/ Truyện Kiều gấp lại trên đầu bấy nay/ Cánh màn khép lỏng cả ngày/ Ruộng vườn vắng mẹ cuốc cày sớm trưa/ Nắng mưa từ những ngày xưa/ Lặn trong đời mẹ đến giờ chưa tan… (Mẹ ốm -1970)

Và hai mươi tám năm sau, trong hoàng hôn Hoa Lư -1998: Chiều mờ non nước cũ/ Bóng kinh thành khói bay/ Những vui buồn trận mạc/ Còn nhuốm vào cỏ cây/ …./ Đường cỏ lơ mơ nắng/ Mái tranh chìm chơi vơi/ Vài tán cau mộc mạc/ Thả hồn quê lên trời. (Hoa Lư).

Viết tới đây, tôi bất giác liên tưởng tới đêm thơ nhạc và giao lưu do Chi hội Nhà văn Việt Nam tại Hải Phòng tổ chức nhân kỷ niệm 50 năm ngày thành lập Hội Nhà văn Việt Nam. Trên Sân khấu không lập loè đèn xanh đèn đỏ, không váy ngắn áo cộc, không bá vai bá cổ hối hả nhảy hip hốp, không khoe đùi khoe sườn, chỉ là những ca khúc cũ kỹ, cũ kỹ như những tác giả của nó, cũ kỹ như con người Trần Đăng Khoa vậy, ấy thế mà khi Hạt gạo làng ta, (thơ Trần Đăng Khoa do Trần Viết Bính phổ nhạc), một bài thơ, một bài hát hết sức dung dị, không màu mè, không mới, không lạ và do các cháu thiếu nhi một trường phổ thông biểu diễn, nhưng hàng trăm khán giả có mặt trong Nhà hát thành phố Cảng đã im phắc, hào hứng chăm chú lắng nghe. Thì ra giá trị đích thực của thi ca nằm ở chiều sâu tâm hồn người nghệ sĩ chứ không phải là thứ màu mè hoa hoè hoa sói theo phép chồng xếp chữ đơn thuần. Mới hay, văn chương đích thực, văn hoá đích thực thì tồn tại mãi. Cái gì nhân danh văn hoá mà không văn hoá, dù vờn ve mỵ người tới mấy chẳng thể đánh lừa được sự thông tuệ của thời gian, tất yếu bị đào thải, hoặc nếu tồn tại, chỉ là thoáng chốc do bị ngợp, chưa kịp phân định mà thôi. Tôi muốn bạn đọc bớt chút thời gian lướt lại bài thơ mà người viết bài này cho rằng là một trong những bài thơ hay của Trần Đăng Khoa. Hay, bởi cái đọng lại cuối cùng nơi bài thơ vẫn là chữ TÌNH .

Tiếng chim vách núi nhỏ dần/ Rì rầm tiếng suối khi gần khi xa/ Ngoài thềm rơi cái lá đa/ Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng (Đêm Côn Sơn- 1968)

Hạt gạo làng ta/ Có bão tháng Bảy/ Có mưa tháng Ba/ Giọt mồ hôi sa/ Những trưa tháng Sáu/ Nước như ai nấu/ Chết cả cá cờ/ Cua ngoi lên bờ/ Mẹ em xuống cấy… (1969).

Không cầu kỳ. Rất chân thật. Bởi vậy rất cảm động. Đọc nhiều lần vẫn cảm động. Quả như Tố Hữu khi nhận định về thi ca, đã viết: ” Bài thơ hay làm cho người ta không thấy câu thơ, chỉ còn cảm thấy tình người… Thơ là tiếng nói tri âm“. Hạt gạo làng ta, với tôi là tiếng nói tri âm! Trần Đăng Khoa khiêm nhường cho rằng Hạt gạo làng ta bay được cao, bay được xa, được chu du khắp đó đây là nhờ nhạc của ông Bính cõng đi. Đúng một phần. Loại trừ tác dụng lan toả trong một giao diện khá rộng nhờ sự chuyển tải có hồn trong một sức sống mới của âm nhạc, Hạt gạo làng ta đủ tư cách sừng sững đứng độc lập bằng vị thế là một thi phẩm đi cùng thời gian…

Thời gian vẫn đi lạnh lùng khắc nghiệt/ Có kiệt tác hôm nay, mai đã bẽ bàng rồi/ Bao thần tượng ta tôn thờ cung kính/ Mưa nắng bào mòn, còn trơ lại đất thôi/

Thơ không cốt ở xác chữ mà cốt ở hồn chữ. Chữ là phương tiện để tác giả gửi hồn vào đó. Và khi ấy, lẽ đương nhiên hồn người hồn chữ quyện nhập vào nhau làm một. Người viết không xúc động, không tâm, chỉ muốn phô diễn sao có khả năng thổi hồn vào các con chữ? Sự “cưỡng hiếp” ấy chỉ cho ra đời những hình hài nhem nhuốc, gàn dở. Và đó nhất quyết không thể là thơ. Làm thơ đâu khó. Ăn cơm bằng bát chuyển qua xúc cơm trong cốc, với những người có nghề, dễ ợt. Mục đích cuối cùng của thơ là hay chứ không phải là lạ. Thể hiện bài thơ bằng cách kiểu gì đều do cái hồn, cái tâm, sự lịch lãm vốn có của nhà thơ và điều chất chứa trong lòng muốn phô ra, muốn giãi bày quyết định. Điều ấy nhiều khi nằm ngoài dự định người viết. ” Tôi để mặc bài thơ chọn lấy thể thơ”– J.Seervielle. Câu thơ hay, bài thơ hay chẳng phải tự dưng mà có. Đó là thứ trời cho. Nhưng để chộp được cái thứ ngọc quý giá trời phú ấy, trong mỗi nhà thơ phải luôn túc trực ý thức nghệ sĩ, phải túc trực ý thức sáng tạo. “Các thần thánh ban cho ta câu thơ thứ nhất, nhưng chính ta phải dụng công làm lấy câu thơ thứ hai”- P. Val ry

Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng, câu thơ bật ra tưởng chừng ngẫu nhiên, chỉ là một thoáng cảm bằng tai, nhưng đọc kỹ cả đoạn, cả bài, không khó khăn nhận ra sự bất chợt ấy bắt đầu từ sự rung động của trái tim, sự bất chợt ấy có vẻ vô thức, nhưng lại là tích góp đã được chuẩn bị của ý thức. Bởi thế câu thơ trở nên có hồn, có thần.

Và hai mươi bốn năm sau, sau là buổi chiều ở một thành phố cổ nơi quê người: Thành xưa đổ bóng vào trời/ Khói sương lãng đãng – Một thời đã xa/ Tháng năm lừng lững đi qua/ Chỉ còn mấy đỉnh tháp già ngẩn ngơ/ Chiều buông ngọn khói hoang sơ/ Tiếng chuông ngàn tuổi tỏ mờ trong mây… (Qua xuzddan – 1992). Rồi mây nước ở Trường Sa: Gió rát mặt, đảo luôn thay hình dạng/ Sỏi cát bay như lũ chim hoang/ Cứ mặc nó. Nào hỡi các chiến hữu/ Ta bắt đầu thôi. Mây nước đã mở màn…/ Những giai điệu ngang tàng như gió biển/ Nhưng lời ca toàn nhớ với thương thôi/ Đêm buông xuống nhìn nhau không rõ nữa/ Cứ ngỡ như vỏ ốc cất thành lời. (Lính đảo hát tình ca trên đảo)

Chẳng rối rắm, không có câu chữ lạ. Bài thơ hiện ra tự nhiên, tự nhiên như cuộc sống vốn thế, tự nhiên như thể người làm thơ không có ý định làm thơ. Mộc mạc như bờ ao gốc rạ, chân chất tựa hạt đậu củ khoai, mà sao gần gũi, thân thiết, hoà đồng, gợi mở thế ? Phải chăng nhờ cách viết, cách cảm rất chân thành đồng quê đó mà bao năm rồi thơ Trần Đăng Khoa cứ bỏ bùa mê vào nhiều thế hệ bạn đọc để người viết ra những câu thơ dung dị nhưng cao sang ấy trở thành một thương hiệu có giá?

Khi trích những câu thơ trên, tôi chợt nhớ đến ý kiến của một người Nam ta, ông Ngô Thì Nhậm: ” Thơ mà quá cầu kỳ thì sa vào giả dối, quá trau chuốt thì sa vào xảo trá, hoang lương hiu hắt thì sa vào buồn bã. Chỉ có thuần hậu giản dị, thẳng thắn không giả dối không xảo trá, không buồn bã mà rốt cục chú trọng đến sự ngăn chặn điều xấu, bảo tồn điều hay, mới là những đặc sắc chính của thơ…” Và ý kiến một ông Tây, ông Yannis Rýtsos : ” Kết quả của một tác phẩm nghệ thuật hay là làm cho chúng ta cảm thấy sảng khoái và khiến cho chúng ta muốn sáng tạo ra một cái gì đó. Chúng ta muốn yêu và muốn đựơc yêu”. Dù ở gầm trời nào, dù ở thời buổi nào, dù tây hay ta, quan niệm về thơ hay cũng chỉ là một.

Trần Đăng Khoa là gã có tài quan sát, quan sát rất tinh tế. Từ hương nhãn, hoa bưởi, tiếng chim chích choè, tiếng trống làng, tiếng máy cày xình xịch, đến chiếc ngõ nhỏ, cánh đồng làng, cây dừa, thầm chí cả bé Giang tập xe đap, đánh tam cúc với mèo; rồi một bông hoa duối, một cây xoan, một bến đò … cũng thành thơ, lại là thơ không xoàng thì giỏi quá!

ĐK

Sự quan sát đó, nếu trước đây chỉ loanh quanh trong góc sân, vườn cải, ao nhà; hình ảnh quan sát bó gọn, tươi non trong khuôn khổ con ong, cái kiến, cây dừa, hạt gạo, cây đa, cánh diều, thì theo năm tháng, theo tỉ lệ thuận với dung nạp kiến thức, văn hoá và bằng sự dậy thì rồi hồi xuân của cảm xúc, càng về sau đã rộng lớn hơn, khái quát, nhân loại hơn, vừa nồng đượm, lại cũng vừa đằm lắng.

… Tôi đứng lặng trước em/ Không phải trước lỗi lầm biến em thành đá cuội/ Nhớ vận nước có một thời chìm nổi/ Bắt đầu từ một tình yêu/ … Có những lỗi lầm phải trả bằng cả một kiếp người/ Nhưng lỗi lầm em phải trả bằng máu toàn dân tộc / Máu vẫn thấm qua từng trang tập đọc/ Vó ngựa Triệu Đà còn đau đến hôm nay. (Trước đá Mỵ Châu- 1974). Hoặc trước nỗi mong manh của những kiếp người: ... Ôi thiên nhiên cảm ơn người nhân hậu/ Những so le, người kéo lại cho bằng/ Ít nhất cũng là khi nằm xuống/ Trong mảnh gỗ rừng, dưới một vầng trăng../ … Tôi đi giữa nổi chìm bao số phận/ Người xưa vẫn đây mà, có xa cách chi đâu/ Tôi thầm gọi. Sao không ai lên tiếng/ Chỉ hoang vắng dưới chân và sương khói trên đầu…/ … Trước thiên nhiên con người như khách trọ/ Như ảo ảnh chập chờn thoáng đến, thoáng lìa xa/ Chúng ta sống bên nhau, dẫu năm này tháng khác/ Thì cũng vẫn chỉ là một thoáng giữa sân ga… ( Ở nghĩa trang Văn Điển- 1986).

Trần Đăng Khoa có nỗi đau chứ! Nhưng anh không hằn học, mà thơ anh là sự xót xa trong nỗi đồng cảm và sẻ chia. Tôi cho rằng thái độ ứng xử và cách nhìn của người làm thơ quyết định tính nhân văn của thơ!

Trước những biến động của nhân loại, Trần Đăng Khoa viết:

Ở nơi nào kia chiến tranh đang gầm rú/ Những quốc gia nào đang thay ruột đổi ngôi/ Trái đất mỏng manh và đáng thương biết mấy/ Trước những mưu mô, toan tính của con người… ( Mátx cơ va, mùa đông năm 1990)

Nhiều người cho rằng thơ Trần Đăng Khoa có hai phần, phần thơ trẻ con và phần thơ người lớn. Tôi không nghĩ có sự rạch ròi đứt đoạn như vậy. Đọc thơ anh, tôi nhận ra sự đồng nhất liền mạch trong cảm xúc, trong suy tưởng và cả sự liền mạch trong cách diễn đạt, cách nói, cách kể, cách cấu trúc thơ…(mà các nhà lý luận vẫn gọi là thi pháp). Có điều phần thơ sau này, ý tứ sâu xa hơn, thâm hậu hơn nhuần nhị hơn, và bởi thế nói được nhiều điều hơn. Càng không thể nói thơ Trần Đăng Khoa viết khi còn nhỏ hay hơn thơ viết khi anh đã lớn. Nhận định như vậy là chủ quan, thiếu công bằng. Mảng thơ sau này của anh, đặc biệt là mảng thơ viết về người lính khi anh là ngưòi lính, và mang thơ viết về nhân tình thế thái khá đặc sắc và có nhiều đóng góp.

Ta ngự giữa đỉnh trời/ Canh một vùng biên ải/ Cho làn sương mong manh/ Hoá trường thành vững chãi/… Lán buộc vào hoàng hôn/ Ráng vàng cùng đến ở/ Bao nhiêu là núi non/ Ríu rít ngoài cửa sổ/ Những mùa đi thăm thẳm/ Trong mung lung chiều tà/ Có bao chàng trai trẻ/ Cứ lặng thinh mà già… (Đỉnh núi- 1998)

Gửi bác Trần Nhuận Minh là khúc tâm sự của người đã từng trái, qua rồi những gì ngộ nhận, non trẻ; là lời tự bach của kẻ đã nhận biết mọi lẽ ở đời, với những gì là thật, những gì là phù phiếm. Là nỗi niềm của kẻ tu hành gần đắc đạo đã ngộ nhiều sự. Tôi cho rằng đây là bài thơ hay, bình dị mà lắng đọng, nhiều chiêm nghiệm, phiêu diêu mà sâu xa, lắm nghĩ ngợi… Bác làm bông lau ngàn/ Thả hồn vào hoang vắng/ Khi buồn thì hát ca/ Lúc vui thì im lặng/ Em quẩy bầu trăng gió/ Bác gánh bao nỗi người/ Sóng đôi mà đơn độc/ Đi mang mang trong đời/ Giờ thì em đã chán/ Những vinh quang hão huyền/ Muốn làm làn mây trắng/ Bay cho chiều bình yên/…/ Đất trời thì chật hẹp/ Làng quê thì mênh mông/ Thung thăng em với bác/ Ta cưỡi thơ ra đồng (1998). Sao có thể nói thơ ở giai đoạn sau này của Trần Đăng Khoa không hay được! Gửi bác Trần Nhuận Minh, một thi phẩm ngắn gọn mà chất chứa, ủ ấp bao nỗi niềm. Đọc rồi cũng thấy nao nao…

Để kết thúc những câu chữ nghĩ sao viết vậy của mình, tôi cho rằng cái làm nên giá trị tác phẩm thi ca nói riêng và văn chương nói chung, hình như chỉ ý thức công dân ở người viết không thôi chưa đủ. Có điều ấy cũng đã là đáng quý, đã là đáng trân trọng. Nhưng để tác phẩm cao hơn, bao quát hơn và tồn tại lâu dài, ngoài ý thức công dân, người viết phải có thêm phẩm chất và ý thức nghệ sĩ. Mừng là, theo cảm nhận chủ quan của riêng người viết bài này, thơ Trần Đăng Khoa có ý thức ấy. Và chính phẩm chất và ý thức nghệ sĩ ở người cầm bút, khiến thơ anh có thể chiềng ra mà đương đầu trong sự đào thải nghiệt ngã, nhưng công tâm và sòng phẳng của thời gian…

Đại Lý Cám Tuấn Mi Tại Hải Phòng.

ĐẠI LÝ CÁM TUẤN MI TẠI HẢI PHÒNG.

Chia sẻ lên MXH:

ĐẠI LÝ CÁM TUẤN MI TẠI HẢI PHÒNG.

Anh Vũ Thứ (Cơ sở sản xuất Khoáng – Thuốc khê khàn – Vẩy mỏ – Điện giải cho chim cảnh)

Hotline: 0984.049.963 Đ/c: SN 13 – Tổ 22 – Đường Khúc Thừa Du 2 – Vĩnh Niệm – Lê Chân – Hải Phòng.

 

Cửa hàng chim cảnh Phương Anh

Hotline: 01635.024.533

Số 18 – Hoàng Minh Thảo – Chợ hang – Đường Chợ Mới  ( Đối diện cổng chợ chim)

 

 

CÁM TUẤN MI SẢN PHẨM CỦA NIỀM ĐAM MÊ HỌA MI

HÃY DÙNG ĐÚNG SỐ CÁM CHO ĐÚNG VỚI GIAI ĐOẠN CỦA CHIM HỌA MI ĐỂ CẢM NHẬN SỰ KHÁC BIỆT RÕ RỆT

 

 

NGUYÊN TẮC SỬ DỤNG THẬT ĐƠN GIẢN KHI 2 SẢN PHẨM CỦA TUẤN MI ĐỒNG GIÁ

CHIM YẾU DÙNG SỐ 1 & CHIM KHỎE DÙNG SỐ 2, KHÔNG LẠM DỤNG NHIỀU MỒI TƯƠI

 

THƯƠNG HIỆU CÁM TUẤN MI CÓ MẶT TRÊN TOÀN QUỐC VÀ ĐẠT THÀNH TÍCH TRONG CÁC GIẢI ĐẤU LỚN. TUYỆT ĐỐI KHÔNG KÍCH SỔI CHO CHIM HỌA MI NHƯ SẢN PHẨM CỦA CÁM TÀU (TRUNG QUỐC), MÀ CÔNG BỀN CHO CHIM HỌA MI, GIÚP CHIM CHƠI PHONG ĐỘ TRONG NHIỀU VỤ.

 

 

CÁM TUẤN MI NHÀ TÀI TRỢ VÀNG SIÊU CUP CÁC CLB HỌA MI VIỆT NAM

 

Nghệ nhân Phú (Lai Châu) sử dụng CÁM TUẤN MI cho chính chiến binh Họa Mi do Tuấn Mi tuyển chọn đạt GIẢI NHẤT giải liên tỉnh MI CHỌI LAI CHÂU.

 

 

Nghệ nhân ĐÀI (ĐIỆN BIÊN) sử dụng CÁM TUẤN MI cho chính chiến binh Họa Mi do Tuấn Mi tuyển chọn đạt GIẢI NHẤT giải MI CHỌI TP ĐIỆN BIÊN.

 

 

Nghệ nhân TUYỂN (LẠNG SƠN) sử dụng CÁM TUẤN MI đạt GIẢI NHẤT giả MI CHỌI – BÌNH GIA LẠNG SƠN.

 

Nghệ nhân CƯỜNG (LẠNG SƠN ) sử dụng CÁM TUẤN MI cho chiến binh đạt GIẢI NHÌ.

 

 

Nghệ nhân THÀNH ( BẮC NINH) sử dụng CÁM TUẤN MI đạt giải NHÌ gải MI HÓT.

 

 

Nghệ nhân TÚ ( HẢI PHÒNG) dùng CÁM TUẤN MI đạt tốp đầu GIẢI MI HÓT SIÊU CUP HỌA MI VIỆT NAM các CLB tại Tp HOA PHƯỢNG ĐỎ.

 

Chính bản thân TUẤN MI tự tuyển chiến binh HỌA MI và chăn chính sản phẩm của mình đã đạt GIẢI NHẤT ĐIỆN QUÂN GIẢI MI CHIẾN HỘI QUÁN HỌA MI XỨ THANH.

 

 

Nghệ nhân TUẤN ( MÓNG CÁI) dùng CÁM TUẤN MI đạt giải BA giải MI CHỌI – MÓNG CÁI QUẢNG NINH

 

 

Nghệ nhân Minh ( Đà Nẵng) chăn CÁM TUẤN MI và đạt giải Ba tiếng hót chim Họa Mi Tp Đà Nẵng.

Và rất nhiều những phản hồi về sản phẩm CÁM TUẤN MI của ae nghệ nhân trên toàn quốc.

Và đây là 1 số hình ảnh của niềm đam mê “ NHỮNG HẠT CÁM VƠI ĐI NIỀM ĐAM MÊ Ở LẠI” Tuấn Mi đồng hành cùng niềm đam mê Họa Mi.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Mọi chi tiết sản phẩm đã có mặt tại Website: chúng tôi hoặc liên hệ trực tiếp Nhà sản xuất CÁM TUẤN MI 0973.448.669 – 0967.448.669

CÁM TUẤN MI đồng hành cùng niềm đam mê.

Xin cảm ơn!

Cập nhật thông tin chi tiết về Đọc Lại Thơ Trần Đăng Khoa – Đình Kính – Hội Nhà Văn Hải Phòng – Văn Hải Phòng – Văn Thơ Hải Phòng – Văn Học Hải Phòng trên website Raffles.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!